Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  24
 Số lượt truy cập :  33266434
​Tìm công thức nitơ tối ưu cho cây khoai lang
Thứ hai, 13-08-2018 | 09:57:35

Một số mối quan hệ có vẻ rất phức tạp, như mối quan hệ giữa cây khoai lang và nitơ trong đất chẳng hạn. Quá ít nitơ thì cây khoai lang không phát triển tốt và cho năng suất thấp. Tuy nhiên, quá nhiều nitơ khoai lại tăng cường phát triển nhánh và lá thay vì củ. Điều này cũng dẫn đến năng suất không cao

 


Fernandes đào củ khoai lên để chứng minh hình mẫu phát triển của khoai vào vụ thu hoạch (Ảnh: Elder c. Mattos)

 

“Cân bằng thận trọng hàm lượng nitơ trong đất là điều căn bản để thu được năng suất cao từ cây khoai lang”, nhà nông học Adalton Fernandes từ Trung tâm củ và tinh bột nhiệt đới tại Đại học bang São Paulo, Brazil cho biết.

 

Nghiên cứu mới do Fernandes đầu đã xác định được bao nhiêu nitơ là vừa đủ để tối đa năng suất từ cây khoai lang ở Brazil. Nghiên cứu chỉ ra lịch sử đồng ruộng là thứ cần lưu ý khi cố gắng áp dụng lượng nitơ tối ưu cho cây khoai lang. Cây trồng phủ đất được trồng trên thửa đất trước khi trồng khoai lang ảnh hưởng đến khối lượng nitơ cần bổ sung.

 

Cây khoai lang trồng trên các lô đất trước đây được sử dụng để trồng cây họ đậu phủ đất cần phân lượng phân đạm (nitơ) ít hơn 35%. Tuy nhiên, trồng khoai sau cây ngũ cốc chẳng khác gì trồng khoai trên lô đất trước đó chỉ có cỏ dại mọc.

 

Cây trồng phủ đất thường được trồng luân canh với cây kinh tế. Chúng có thể được kết hợp vào đất làm phân xanh. Chúng có thể cũng có thể để lại trên bề mặt làm lớp bổi sống. Những loại cây trồng phủ đất khác nhau mang lại lợi ích khác nhau cho mối quan hệ sinh trưởng này. Cây họ đậu chẳng hạn có thể tăng hàm lượng nitơ trong đất. Vi khuẩn có ích trong nốt rễ của chúng hút nitơ khí quyển vào đất. Chúng cũng phân hủy nhanh hơn cây phủ ngũ cốc khi bị phá bỏ.

 

Các nhà nghiên cứu đã sử dụng một khu vực nghiên cứu ở đông nam Brazil. Khu vực này đại diện tốt cho điều kiện nhiệt đới và đất pha cát điển hình cho một số khu vực trồng khoai lang ở Brazil.

 

Trong các lô đất khác nhau, các nhà nghiên cứu trồng 1 trong 2 loại cây họ đậu, một giống cây ngũ cốc hoặc cho cỏ dại mọc từ hạt có trong đất. Khi cây họ đậu và cây ngũ cốc ra hoa, chúng sẽ bị phá bỏ. Thân cây được trộn vào đất. Sau đó, các nhà nghiên cứu trồng khoai lang lên các lô đất này và kiểm tra xem bao nhiêu nitơ là cần thiết để tối đa năng suất.

 

Khi khoai được trồng sau cây trồng họ đậu, chúng cần khoảng 50 kg nitơ/ha để có năng suất tối ưu. Trái lại, khoai lang cần hơn 75 kg nitơ/ha khi trồng sau một vụ cây phủ ngũ cốc hoặc cỏ dại.

 

Hiện tại, các khuyến cáo về khối lượng phân đạm cần dùng cho cây khoai lang vẫn chưa xem xét đến yếu tố lịch sử canh tác trong khu vực. Điều đó có thể dẫn tới việc nông dân sẽ sử dụng ít hoặc nhiều phân bón hơn cần thiết.

 

Ngoài tối đa năng suất, sử dụng ít phân bón hơn cũng giảm chi phí cho nông dân, một điều đặc biệt quan trọng ở Brazil. Phần lớn khoai lang được trồng tại các trang trại gia đình với tỉ lệ áp dụng công nghệ thấp. Các nhà nghiên cứu hiện đang kết hợp các giống cây họ đậu khác để làm cây phủ đất để thử nghiệm xem chúng có cung cấp nitơ hiệu quả hơn cho khoai lang hay không. Họ cũng đang thăm dò việc kết hợp cây họ đậu và cây ngũ cốc làm cây phủ đất trong cùng diện tích để xem chúng có mang lại lợi ích nào khác cho nông dân trồng khoai lang không.

 

LH - Dostdongnai, theo Eurekalert.

Trở lại      In      Số lần xem: 2192

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD