Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  22
 Số lượt truy cập :  33262442
Đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ phục vụ tái cơ cấu lĩnh vực trồng trọt
Thứ hai, 29-09-2014 | 08:11:16

Trong những năm qua, việc thực hiện các chương trình, đề án khoa học và công nghệ đã mang lại hiệu quả lớn, góp phần tăng năng suất và chất lượng nông sản. Tuy nhiên, để thực hiện hiệu quả nhiệm vụ tái cơ cấu lĩnh vực trồng trọt, theo nhận định của các chuyên gia, cần tăng cường hơn nữa việc ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào lĩnh vực này.

 

Thu hoạch lúa bằng máy gặt đập liên hợp
giúp giảm thất thoát xuống một nửa so với thu hoạch thủ công (Ảnh: KV)


Nhiều giống cây trồng cho năng suất cao

 

Theo Vụ Khoa học công nghệ và Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), trong giai đoạn 2001-2010, ngành khoa học và công nghệ (KH&CN) ước tính đã đóng góp vào tăng trưởng của ngành trồng trọt khoảng 35%; làm tăng sức cạnh tranh và giá trị của sản phẩm trồng trọt. Trong đó, giai đoạn 2008-2013 đã công nhận được 340 giống cây trồng phục vụ cho sản xuất, gồm: 119 giống lúa, 31 giống ngô, 28 giống đậu đỗ, 18 giống cây có củ, 17 giống rau,…Từ năm 2007 đến năm 2012, tổng diện tích gieo trồng các giống lúa mới phục vụ xuất khẩu đạt khoảng trên 2 triệu ha tại các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ và Nam Trung Bộ; năng suất tăng so với các giống cũ trung bình 0,4 – 0,5 tấn/ha. Đối với các tỉnh phía Bắc, trong 5 năm trở lại đây, giống lúa thuần lai tạo trong nước đã bắt đầu có vị trí trong sản xuất và có xu hướng thay dần các giống lúa thuần trước đây. Đó là các giống lúa: BC15, BT7, PC6, P6,… cho năng suất và chất lượng cao. Tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long, các giống lúa ngắn ngày năng suất cao phục vụ cho xuất khẩu điển hình là các giống: OM2517, OM2717, OM4498,…

 

Các giống ngô lai trong nước cho hiệu quả kinh tế cao, chống chịu với điều kiện bất thuận đã và đang được bà con nông dân sử dụng phổ biến trong sản xuất như LVN4, LVN9, LVN10,… Nhiều giống ngô lai mới có tiềm năng năng suất 10-12 tấn/ha đã được khẳng định trong thử nghiệm và sản xuất, gồm: VN8960, LVN14, LVN61,… Hàng năm, các giống ngô mang bản quyền Việt Nam đã cung ứng ra ngoài sản xuất khoảng 3.000 tấn giống với giá thành rẻ hơn các giống nhập nội 20.000 – 30.000 đồng/kg, làm lợi cho sản xuất khoảng 60-90 tỷ đồng.

 

Một số giống cây công nghiệp được nghiên cứu, tuyển chọn trong nước đã và đang được mở rộng ra ngoài sản xuất. Trong đó, 48% diện tích trồng chè trong nước sử dụng giống chè mới năng suất đạt 7,3 tấn/ha; tăng 25,8% so với năm 2005 (5,8 tấn/ha); 20% diện tích trồng cà phê đang sử dụng giống mới với năng suất bình quân đạt 3,5-4,0 tấn/ha; 30% diện tích mía đang trồng sử dụng giống mía mới chọn tạo,…Bên cạnh đó, ngành đã ứng dụng được công nghệ vi sinh để nghiên cứu sản xuất các chế phẩm sinh học, vi sinh tái tổ hợp trong lĩnh vực bảo vệ thực vật, phân bón, cải tạo đất, xử lý nước thải,…

 

Thêm vào đó, đã có nhiều quy trình công nghệ được công nhận và ứng dụng vào thực tiễn sản xuất, mang lại hiệu quả kinh tế cho người nông dân như: quy trình ghép tạo vườn xoài làm tăng năng suất từ 1,5-2,5 lần; quy trình kỹ thuật nhân giống hoa hồng và hoa cúc bằng phương pháp giâm cành, nâng tỷ lệ sống của hoa hồng từ 50% lên 90%, hoa cúc từ 70% lên 100%.

 

Song song với đó, nhiều thiết bị dây chuyền mới phù hợp với yêu cầu và đặc điểm sản xuất nông nghiệp Việt Nam đã được nghiên cứu, thiết kế, cải tiến, chế tạo thành công gồm: các hệ thống thiết bị và quy trình canh tác lúa, ngô, mía; liên hợp máy thu hoạch lúa, ngô, mía, lạc; dây chuyền chế biến hạt giống, chế biến chè, cà phê, tinh bột sắn; các máy và thiết bị sấy hạt; các dây chuyền, thiết bị bảo quản nông sản, sản xuất phân bón hữu cơ.

 

Nghiên cứu công nghệ sinh học còn gặp nhiều khó khăn

 

Bên cạnh những kết quả đạt được, theo Vụ Khoa học công nghệ và Môi trường, hiện, việc triển khai và ứng dụng khoa học công nghệ trong lĩnh vực trồng trọt vẫn còn nhiều khó khăn. Cụ thể, cơ sở hạ tầng, trang thiết bị của nhiều tổ chức KH&CN còn lạc hậu, thiếu hoặc không đồng bộ, nhất là nghiên cứu về công nghệ sinh học, công nghệ cao trong nông nghiệp. Hệ thống đào tạo chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt đối với những lĩnh vực KH&CN tiên tiến.

 

Bên cạnh đó, việc đặt hàng các phòng thí nghiệm và các tổ chức KH&CN còn nhiều hạn chế; kết quả nghiên cứu còn chậm được triển khai, ứng dụng trong thực tế. Nhiệm vụ KH&CN nhiều nhưng cơ cấu nhiệm vụ chưa hợp lý, thiếu sự gắn kết trong khâu xác định nhiệm vụ nghiên cứu và triển khai thực hiện. Phần lớn các nghiên cứu tập trung vào khâu giống, quy trình canh tác trong khi nghiên cứu sâu về chế biến, gia tăng giá trị của sản phẩm còn chưa được chú trọng đúng mức, hiệu quả hoạt động KH&CN thấp. Thiếu sự liên kết giữa nghiên cứu KH&CN và chuyển giao, ứng dụng vào thực tiễn.

 

Về trình độ công nghệ, sản xuất của nhiều sản phẩm còn thấp và lạc hậu. Việc xây dựng nền nông nghiệp ứng dụng khoa học công nghệ chậm chuyển biến, chưa tạo đột phá để nâng cao giá trị gia tăng, chưa tạo cơ sở vững chắc cho chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng hiệu quả bền vững, gắn kết theo chuỗi giá trị; thiết bị và công nghệ sau thu hoạch còn lạc hậu, kết cấu hạ tầng phục vụ bảo quản chế biến còn chưa phát triển, quy mô nhỏ, tỷ lệ hao hụt còn cao.

 

Đặc biệt, công nghệ về nghiên cứu chọn tạo giống lúa lai còn nhiều hạn chế, chưa tạo được đột phá về năng suất, chất lượng và tính thích ứng.

 

Cụ thể, hạt giống lúa lai mới đáp ứng được khoảng 25% nhu cầu trong nước; số lượng giống lúa lai còn lại vẫn phải nhập với khoảng từ 12.000 – 13.000 tấn mỗi năm. Diện tích lúa thuần sản xuất ở miền Bắc cơ bản đã được sử dụng giống lúa theo tiêu chuẩn giống xác nhận nhưng ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long mới chỉ đạt gần 40% tổng diện tích sản xuất lúa.

 

Liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp còn yếu

 

Lý giải về những khó khăn trên, bà Nguyễn Thị Thanh Thủy – Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học công nghệ và môi trường (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) cho rằng do nhiều nguyên nhân. Trong đó, nhận thức về nghiên cứu, ứng dụng và phát triển KH&CN chưa được xem trọng đúng mức. Cơ chế quản lý KH&CN còn chậm đổi mới, mang nặng tính hành chính, chưa chú trọng nhiều đến chất lượng sản phẩm nghiên cứu; chưa gắn kết nhiệm vụ nghiên cứu với yêu cầu phát triển của ngành và đòi hỏi của thị trường. Bên cạnh đó, cơ chế tài chính cho nghiên cứu KH&CN còn nhiều thủ tục, định mức chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật còn bất cập; thiếu chính sách khuyến khích mạnh mẽ các thành phần kinh tế đầu tư vào nghiên cứu và chuyển giao khoa học kỹ thuật.

 

Mặt khác, kinh phí đầu tư cho nghiên cứu và chuyển giao khoa học, kỹ thuật trong nông nghiệp còn thấp so với yêu cầu, mới được khoảng 0,25% GDP nông nghiệp; đầu tư còn dàn trải và thiếu trọng tâm. Việc xã hội hóa nguồn kinh phí nghiên cứu khoa học còn chậm, tỷ lệ đầu tư ngoài ngân sách cho nông nghiệp còn thấp, chưa có giải pháp hữu hiệu để huy động được các nguồn lực đầu tư của doanh nghiệp và toàn xã hội cho khu vực này.

 

Thêm vào đó, kinh tế hộ với ruộng đất manh mún trong nông nghiệp đang là cản trở cho quá trình đầu tư ứng dụng KH&CN trong phát triển nông nghiệp. Ruộng đất để canh tác nông nghiệp bị chia nhỏ, lượng sản phẩm ít nên nông dân không quan tâm nhiều đến đầu tư áp dụng tiến bộ KH&CN, đầu tư cơ giới hóa. Trong khi đó, về tổ chức sản xuất, chưa hình thành được các vùng sản xuất lớn có quản trị hiện đại, gắn bó hữu cơ giữa quy hoạch nông nghiệp với quy hoạch công nghiệp chế biến, quy hoạch dịch vụ và chính sách hỗ trợ. Liên kết vùng trong sản xuất nông nghiệp giữa các tỉnh và trong từng tỉnh còn kém. Các tổ chức kinh tế hợp tác, các mô hình liên kết trong tổ chức sản xuất nông nghiệp chưa phát triển so với yêu cầu. Liên kết nông dân và doanh nghiệp còn yếu, kém bền vững. Liên kết giữa nông nghiệp và công nghiệp, dịch vụ còn hạn chế về tổ chức không gian và chuỗi ngành hàng.

 

Cần nâng cao năng lực của các tổ chức KH&CN lĩnh vực trồng trọt

 

Nhằm đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng khoa học công nghệ đáp ứng yêu cầu tái cơ cấu lĩnh vực trồng trọt theo hướng hiện đại, nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững, theo bà Nguyễn Thị Thanh Thủy cần thực hiện nhiều giải pháp thiết thực.

 

Về cơ chế chính sách, cần hoàn thiện cơ chế đặt hàng, mở rộng việc đặt hàng sản phẩm KH&CN trong lĩnh vực trồng trọt, thực hiện tốt cơ chế thí điểm đặt hàng một số sản phẩm chủ lực xuất khẩu lĩnh vực trồng trọt. Xây dựng cơ chế liên kết nghiên cứu với đào tạo và khuyến nông, hỗ trợ cho nông dân, doanh nghiệp để khuyến khích tiếp thu ứng dụng KH&CN trong sản xuất kinh doanh.

 

Bên cạnh đó, cần đẩy nhanh xã hội hóa hoạt động KH&CN, khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư nghiên cứu và chuyển giao công nghệ; có chính sách miễn thuế nhập khẩu thiết bị, công nghệ. Hoàn thiện cơ chế chính sách nhằm thu hút các doanh nghiệp nước ngoài, ngoài nhà nước đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, trong đó, ưu tiên các đầu tư từ sản xuất, kinh doanh giống cây trồng chất lượng cao, sản xuất phương tiện, thiết bị máy móc phục vụ cơ giới hóa trồng trọt và công nghệ sau thu hoạch.

 

Về đầu tư cho KH&CN, cần tăng tỷ trọng đầu tư cho các hoạt động KH&CN trong lĩnh vực trồng trọt. Trong đó, ưu tiên đầu tư nghiên cứu triển khai ứng dụng công nghệ mới, công nghệ cao. Hoàn thiện quy hoạch xây dựng các khu nông nghiệp, vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao ở các địa phương. Đồng thời, tăng cường đầu tư nâng cao năng lực khoa học của các tổ chức KH&CN lĩnh vực trồng trọt; bổ sung, nâng cấp cơ sở hạ tầng, thiết bị công nghệ cho các phòng thí nghiệm trọng điểm; hoàn thiện công nghệ, chế tạo thử nghiệm trước khi chuyển giao vào sản xuất; ưu tiên thực hiện các nhiệm vụ ứng dụng, chuyển giao công nghệ, công tác khuyến nông, khuyến công.

 

Về quản lý KH&CN, cần hướng chuyển từ quản lý theo nhiệm vụ KH&CN sang khoán, đặt hàng sản phẩm KH&CN; quản lý chặt chẽ sản phẩm đầu ra của nhiệm vụ nghiên cứu. Xây dựng cơ chế gắn kết giữa nguồn ngân sách nhà nước cho nghiên cứu, sản xuất thử nghiệm với kinh phí để sản xuất, thương mại hóa các sản phẩm.

 

Đối với các tổ chức KH&CN công lập trong lĩnh vực nông nghiệp cần được áp dụng cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm; giao quyền chủ động cao hơn cho người đứng đầu cơ quan đơn vị nghiên cứu; xây dựng thị trường KH&CN hướng về nông dân như khách hàng chính.

 

Về phát triển nguồn nhân lực, cần quy hoạch và xây dựng kế hoạch dài hạn đào tạo cán bộ nghiên cứu, khuyến nông theo hướng toàn diện, chuyên sâu của lĩnh vực; bảo đảm đồng bộ và hài hòa giữa chuyên gia trình độ cao với các kỹ sư thực hành và kỹ thuật viên.

 

Ngoài ra, cần tăng cường hợp tác quốc tế và trong nước về nghiên cứu và chuyển giao công nghệ. Trong đó, ưu tiên hợp tác trong lĩnh vực nghiên cứu, ứng dụng công nghệ sinh học, công nghệ cao để nâng cao năng lực sản xuất trong nước, sức cạnh tranh của sản phẩm. Hợp tác với Viện nghiên cứu lúa quốc tế (IRRI) nghiên cứu phân tích chuỗi sản xuất lúa gạo; xây dựng chương trình nghiên cứu song phương với IRRI về chọn tạo giống lúa trung hạn và dài hạn. Xây dựng các nhiệm vụ KH&CN có sự tham gia nghiên cứu của chuyên gia quốc tế từ các tổ chức khoa học công nghệ tiên tiến trên thế giới để nâng cao hàm lượng khoa học cho các đề tài dự án, đặc biệt trong các lĩnh vực công nghệ sinh học./.

 

Bùi Thủy - ĐCSVN.

Trở lại      In      Số lần xem: 1688

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Hơn 120 quốc gia ký kết Hiệp ước Paris về biến đổi khí hậu
  • Một số giống đậu tương mới và mô hình chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất lúa tại Đông Nam Bộ và Đồng Bằng Sông Cửu Long
  • Các nước cam kết chống biến đổi khí hậu
  • 12 giống hoa được công nhận bản quyền
  • Thảo luận việc quản lý nước theo cơ chế thị trường
  • Lượng nước ngầm trên Trái đất đạt 23 triệu kilômét khối
  • Sản xuất hồ tiêu thế giới: Hiện trạng và Triển vọng
  • Triển vọng tích cực cho nguồn cung ngũ cốc toàn cầu năm 2016
  • Cây trồng biến đổi gen với hai tỷ ha (1996-2015); nông dân hưởng lợi >150 tỷ usd trong 20 năm qua
  • Cơ hội cho gạo Việt
  • Việt Nam sẽ áp dụng cam kết TPP cho thêm 40 nước
  • El Nino có thể chấm dứt vào cuối tháng 6
  • Chi phí-hiệu quả của các chương trình bệnh động vật "không rõ ràng"
  • Xuất khẩu hồ tiêu: Gậy ông đập lưng ông
  • Đất có thể đóng vai trò quan trọng trong việc giảm lượng khí nhà kính
  • Quản lý và phát triển thương hiệu gạo Việt Nam
  • Những cách nổi bật để giải quyết những thách thức về hệ thống lương thực toàn cầu
  • Lập bản đồ các hộ nông dân trồng trọt trên toàn thế giới
  • Hỗ trợ chuyển đổi từ trồng lúa sang trồng ngô
  • Nếu không được kiểm soát, cỏ dại sẽ gây thiệt hại kinh tế tới hàng tỷ USD mỗi năm
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD