Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  26
 Số lượt truy cập :  33265660
Du nhập vào vùng QTL nhờ chỉ thị phân tử nhằm cải thiện tính kháng bệnh rỉ sắt của đậu phộng (Arachis hypogaea L.)
Thứ hai, 28-07-2014 | 08:08:23

Rajeev K. Varshney, Manish K. Pandey, Pasupuleti Janila, Shyam N. Nigam, Harikishan Sudini, M. V. C. Gowda, Manda Sriswathi, T. Radhakrishnan, Surendra S. Manohar, Patne Nagesh

Theoretical and Applied Genetics August 2014, Volume 127, Issue 8, pp 1771-1781 (on-line)

 

http://link.springer.com/article/10.1007/s00122-014-2338-3

Thông tin chính

Du nhập thành công vào một QTL chủ lực điều khiển tính kháng bệnh rỉ sắt, thông qua hồi giao cải tiến nhờ marker, trong ba giống đậu phộng phổ biến ở Ấn Độ, tạo nên các dòng introgression triển vọng có khả năng tăng cường tính kháng bệnh và cho năng suất cao hơn.

Tóm Tắt

Bệnh rỉ sắt trên lá đậu phộng do vi nấm Puccinia arachidis Speg, một trong những đối tượng gây hại chính trên cây đậu phộng (Arachis hypogaea L.). Một vùng QTL giả định trên nhóm liên kết gen AhXV giải thích được 82,62 % biến thiên kiểu hình tính kháng bệnh rỉ sắt đã được minh chứng và cho du nhập đoạn gen ấy vào giống ‘GPBD 4’ là con lai của từ 3 giống nhiễm (‘ICGV 91114’, ‘JL 24’ and ‘TAG 24’) thông qua lai hồi giao cải tiến nhờ chỉ thị phân tử (MABC). Phương pháp MABC được áp dụng nhờ bốn chỉ thị bao gồm một chỉ thị dominant (IPAHM103) và ba chỉ thị co-dominant (GM2079, GM1536, GM2301) có mặt trên QTL giả định ấy. Sau 2–3 lần hồi giao và tự phối, 200 dòng Ils (introgression lines) đã được phát triển từ ba cặp lai nói trên. Đánh giá ngoài đồng đã xác định có 81 ILs biểu hiện tính kháng bệnh rỉ sắt. Những dòng Ils này còn biểu hiện năng suất cao (pod yields) (tăng 56–96 % so với đối chứng nhiễm của bố mẹ) trong điều kiện trồng ở vùng đang có dịch bệnh. Thanh lọc 43 dòng Ils triển vọng bằng 13 markers có trong nhóm liên kết gen AhXV cho thấy kết quả du nhập như vậy (introgression) ở vùng QTLtừ bố mẹ kháng trong  11 dòng ILs. Đánh giá nhiều địa điểm ngoài đồng các dòng Ils này cho thấy chúng ta có thể phóng thích các giống cải tiến triển vọng ấy. Các markers liên kết có thể được sử dụng để cải thiện tính kháng bệnh rỉ sắt trong chương trình chọn tạo giống đậu phộng cải tiến.

Bùi Chí Bửu lược dịch.

 

Hình 2: Phản ứng đối với bệnh rỉ sắt trên bố mẹ và các dòng Ils (introgression lines) biểu thị QTl bệnh rỉ sắt thông qua hồi giao cải tiến nhờ chỉ thị phân tử (MABC) trên cây đậu phộng. Panel đầu tiên (a) biểu thị phản ứng bệnh trên giống nhiễm và giống kháng; Panel thứ hai (b) biểu thị phản ứng bệnh trên lá của dòng bố mẹ và dòng cây con đã cải tiến; và quan sát ngoài đồng các dòng Ils có QTl bệnh rỉ sắt thông qua chương trình MABC. Panel thứ ba (c) biểu thị đánh giá ngoài đồng có lập lại đối với các dòng Ils được chọn lọc từ ‘Jl24’. Dòng tái tục (‘Jl24’)và dòng Ils của nó (‘Jl24’+rust QTl) có kiểu hình giống nhau.

Trở lại      In      Số lần xem: 1772

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD