Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  21
 Số lượt truy cập :  33259325
Gien kháng từ các giống họ hàng hoang dã của các cây trồng chính cung cấp cơ hội cho nông nghiệp bền vững trên toàn thế giới
Thứ năm, 24-09-2015 | 08:23:10

Hai hoặc nhiều gien kháng từ các loài cây họ hàng hoang dã được đưa vào các giống cây trồng chính thông qua kỹ thuật di truyền có thể đảm bảo đặc tính kháng của các loại cây này đối với một số dịch bệnh, đóng góp cho nông nghiệp bền vững trên toàn thế giới. Đây là phát hiện được trình bày tại một hội nghị khoa học quốc tế tổ chức tại Wageningen trong tháng 9. Kết luận được đưa ra từ một nghiên cứu về đặc tính kháng mạnh hơn với nấm Phytophthora thông qua việc sử dụng các gien kháng từ các loài khoai tây hoang dã (DuRPh). Nghiên cứu được tài trợ bởi chính phủ Hà Lan trong mười năm qua.

 

Khoai tây là cây trồng chủ lực phổ biến thứ ba trên toàn thế giới và là cây trồng quan trọng nhất ở Hà Lan. Việc trồng khoai tây đòi hỏi nhiều thuốc trừ sâu hơn so với các cây trồng khác và người trồng chú trọng sử dụng các hóa chất để bảo vệ cây trồng chống lại bệnh mốc sương do nấm Phytophthora gây nên. Mầm bệnh này có rất nhiều biến thể di truyền, có nghĩa là nó liên tục tiến hóa thành hình thức mới. Tác nhân gây bệnh như vậy có thể phá vỡ hệ thống phòng thủ của cây tương đối dễ dàng.

Việc trồng khoai tây thông thường đòi hỏi thuốc diệt nấm phải được sử dụng 10-15 lần một năm để ngăn ngừa bệnh. Điều này gây tác động đến môi trường. Ngoài ra, thiệt hại về năng suất cũng như chi phí thuốc trừ sâu do bệnh thối củ khiến người trồng khoai tây ở Hà Lan tổn thất khoảng 100 triệu Euro mỗi năm, chiếm tới 20% chi phí sản xuất. Trên thế giới, thiệt hại do bệnh thối củ (mất mùa cộng với chi phí giảm thiểu bệnh) lên tới hàng tỷ Euro.

Trong khuôn khổ của nghiên cứu về DuRPh trong mười năm qua, các gien từ khoai tây hoang dã đã được sử dụng thông qua hình thức biến đổi gien để phát triển các giống khoai tây nguyên mẫu có đặc tính kháng bền với bệnh thối củ. Nghiên cứu này cũng đã giúp phát triển việc quản lý đặc tính kháng có hiệu quả, cho phép quan sát sự biến đổi gien của mầm bệnh trên khắp Hà Lan. Sự kết hợp của hai phương pháp này có thể tiết kiệm đến 80% chi phí sử dụng thuốc diệt nấm.

Theo các nhà khoa học quốc tế, kết quả của DuRPh có thể được áp dụng với các cây lương thực quan trọng khác. Có một số loại cây trồng khác mà một hoặc một vài tác nhân gây bệnh cụ thể tạo ra các vấn đề lớn, chẳng hạn như lúa mì và chuối. Ở đây, có khả năng là các loài hoang dã liên quan chặt chẽ có thể có những gien kháng được đưa vào các giống cây trồng quan trọng.

Sự kết hợp thông minh nhiều gien kháng từ các loài liên quan đưa vào các giống cây trồng qua kỹ thuật di truyền, kết hợp với việc giám sát các tác nhân gây bệnh sẽ cho phép duy trì khả năng chống lại dịch bệnh trong dài hạn cho các giống cây này. Các phát hiện khoa học gần đây cho thấy kháng thể sẽ hoạt động lâu hơn nếu tập hợp các gien kháng thuốc có bao gồm các gien đóng một vai trò quan trọng trong sự tương tác giữa các cây trồng và các mầm bệnh.

Lê Hồng Vân - Mard, theo Phys.org
Trở lại      In      Số lần xem: 951

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD