Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  35
 Số lượt truy cập :  33262310
Loài cỏ mới trung hòa ô nhiễm độc hại từ chất nổ
Thứ tư, 30-11-2016 | 11:52:55

Trong một bài báo được công bố trực tuyến trên tạp chí Plant Biotechnology vào ngày 16/11/2016, các nhà nghiên cứu tại Trường Đại học Washington và Trường Đại học York đã mô tả các loài cỏ mới biến đổi gen có khả năng trung hòa và loại bỏ RDX, một hợp chất độc hại đã được sử dụng rộng rãi trong các chất nổ từ Chiến tranh thế giới thứ hai.

 

Nhóm nghiên cứu đã cấy 2 gen từ vi khuẩn được huấn luyện để ăn RDX vào 2 loài cỏ lâu năm có tên khoa học là Panicum virgatum và Agrostis stolonifera để phân tách RDX thành những thành phần vô hại. Các chủng cỏ này loại bỏ toàn bộ RDX từ đất mô phỏng, trên đó, các loài cỏ này đã được trồng trong vòng chưa đầy hai tuần và không phát hiện thấy sự tích tụ của hóa chất độc hại trong lá hoặc thân cây.

Đây là minh chứng đầu tiên cho thấy các loài cỏ biến đổi gen có khả năng xử lý ô nhiễm môi trường. Các loài cỏ này khỏe mạnh, sinh trưởng nhanh và ít phải chăm sóc là những ưu thế vượt trội hơn các loài cỏ khác tại những địa điểm cần được xử lý trong thế giới thực.

RDX là hợp chất hữu cơ tạo nền tảng cho nhiều loại chất nổ phổ biến trong quân đội, có thể tồn tại trong môi trường có đạn chưa nổ hoặc nổ một phần. Với liều lượng đủ lớn, RDX đã được chứng minh gây co giật và tổn thương các cơ quan, và hiện đang được Cơ quan đăng ký chất độc và bệnh tật xếp vào loại chất gây ung thư ở người. Không giống thành phần của các chất nổ độc hại khác như TNT liên kết với đất và có xu hướng lưu lại dưới đất, RDX dễ hòa tan trong nước và dễ lây lan ô nhiễm vượt quá giới hạn cho phép.

Stuart Strand, đồng tác giả nghiên cứu cho rằng: "Các hạt được phân tán xung quanh và khi trời mưa, RDX hòa tan trong nước mưa khi nó di chuyển dưới đất và làm nhiễm bẩn nước ngầm. Trong một số trường hợp, RDX có thể gây ô nhiễm các giếng nước uống".

Các loài cỏ dại khử ô nhiễm RDX từ đất khi chúng hút nước lên qua rễ, nhưng không giảm đáng kể hàm lượng chất ô nhiễm. Vì vậy, khi cỏ chết, các hóa chất độc hại được đưa trở lại môi trường.

Trước đây, nhóm nghiên cứu đã phân lập các enzym có trong những vi khuẩn được phát triển để sử dụng nitơ trong RDX như là một nguồn thức ăn. Quá trình đó đã bổ sung thêm lợi ích nữa là khả năng phân hủy hợp chất RDX độc hại thành những thành phần vô hại.

Bản thân vi khuẩn không phải là công cụ xử lý lý tưởng vì chúng cần các nguồn thức ăn lạ không có trong các bãi tập quân sự. Do vậy, các nhà khoa học đã cấy các gen từ vi khuẩn vào trong những loài cỏ được sử dụng phổ biến trong môi trường phòng thí nghiệm. Các thí nghiệm đã chứng minh các chủng cỏ mới có khả năng xử lý ô nhiễm RDX thành công hơn nhiều so với các loài cỏ hoang khác.

Nhóm nghiên cứu cũng phát hiện thấy một lợi ích phụ ngoài mong đợi, đó là vì cỏ biến đổi gen sử dụng RDX như là một nguồn nitơ, nên trên thực tế chúng sinh trưởng nhanh hơn các loài cỏ dại.

Bước tiếp theo, nhóm nghiên cứu sẽ thực hiện các thí nghiệm thực địa ở bãi huấn luyện quân sự để kiểm tra phương thức hoạt động của các loài cỏ mới trong những điều kiện khác nhau. Việc sử dụng rộng rãi các loài cỏ mới sẽ cần có sự phê chuẩn của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ để đảm bảo các biến đổi di truyền không đe dọa đến các loài cỏ dại. Với quy mô ô nhiễm chất nổ trên toàn thế giới, cỏ biến đổi gen mới sẽ là giải pháp giá rẻ và bền vững để xử lý các địa điểm ô nhiễm thuốc nổ.

 

N.P.D - NASATI, theo Sciencedaily.

Trở lại      In      Số lần xem: 799

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD