Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  15
 Số lượt truy cập :  32896221
Lớp Phủ “Chống Gỉ Sắt” Bảo Vệ Cây Trồng Chống Lại Bệnh Hại Với Sợi Nano Xenlulo
Thứ hai, 11-10-2021 | 08:48:49

Lớp áo thấm nước để chống rỉ sắt? Nghe có vẻ ngược đời nhưng khi đề cập đến cây đậu tương và bệnh gỉ sắt, các nhà nghiên cứu từ Nhật Bản đã phát hiện ra rằng việc phết một lớp áo giúp bề mặt lá thấm nước sẽ giúp bảo vệ chống lại sự nhiễm trùng.

 

Trong một nghiên cứu được công bố vào tháng 9/2021 trên tạp chí Frontiers in Plant Science, các nhà nghiên cứu từ Đại học Tsukuba đã tiết lộ việc phủ lên lá cây đậu tương bằng sợi nano xenluloza sẽ thay đổi bề mặt lá từ không thấm nước sang thấm nước và mang lại khả năng chống lại bệnh gỉ sắt ở đậu tương châu Á.

 

Bệnh gỉ sắt là bệnh thực vật có tên gọi từ các bào tử nấm bệnh gỉ sắt hoặc nấm màu nâu trên bề mặt của cây bị nhiễm bệnh. Bệnh gỉ sắt đậu tương châu Á (ASR) là một bệnh gây hại trên cây đậu tương, gây thiệt hại năng suất ước tính lên đến 90%. ASR do Phakopsora pachyrhizi gây ra, một loại nấm bệnh cần một vật chủ thực vật sống để tồn tại. Việc áp dụng kịp thời thuốc diệt nấm hiện nay là cách duy nhất để kiểm soát ASR trên đồng ruộng. Nhưng việc sử dụng thuốc diệt nấm có thể có vấn đề, kết quả tác động tiêu cực đến môi trường, tăng chi phí sản xuất và các mầm bệnh kháng thuốc diệt nấm.

 

“Chúng tôi đã nghiên cứu ra sợi nano xenlulo (CNF) như một phương pháp thay thế để kiểm soát ASR. Cụ thể, chúng tôi muốn biết phủ lá cây đậu tương bằng CNF để chống lại P. pachyrhizi có được không", tác giả của nghiên cứu, Giáo sư Yasuhiro Ishiga cho biết.

 

Trong số các phương pháp hiện có để cô lập CNF, va chạm với chất lỏng (ACC) đã được chứng minh là làm thay đổi các đặc tính ưa nước (hấp thụ nước) và kỵ nước (chống thấm nước) của các bề mặt, chuyển đổi tính chất này sang tính chất khác. Nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng CNF thu được qua ACC có độ thấm ướt cao hơn CNF được phân lập bằng các phương pháp khác.

 

“Chúng tôi đã chỉ ra rằng CNF có thể thay đổi bề mặt lá đậu tương từ kỵ nước sang ưa nước, điều này cung cấp khả năng chống lại P. pachyrhizi”, giáo sư Yuji Yamashita giải thích.

 

Nhóm nghiên cứu đã tìm thấy ít tổn thương hơn và giảm đáng kể sự hình thành của P. pachyrhizi appressoria, là cấu trúc tiền nhiễm chuyên biệt được sử dụng để phá vỡ bề mặt bên ngoài của cây chủ, trên lá được xử lý CNF so với lá đối chứng (không được xử lý). Kết quả cũng cho thấy sự biểu hiện gen bị ức chế có liên quan đến sự hình thành cấu trúc tiền nhiễm ở P. pachyrhizi trên lá được xử lý so với đối chứng.

 

“Đặc biệt, biểu hiện gen chitin synthase đã bị ngăn chặn và P. pachyrhizi cần các gen tổng hợp chitin để hình thành cấu trúc trước khi lây nhiễm”, giáo sư Ishiga cho biết.

 

Đây là nghiên cứu đầu tiên nghiên cứu việc áp dụng CNF để kiểm soát bệnh hại cây trồng trên đồng ruộng, kỹ thuật này mang lại những khả năng mới để quản lý bệnh hại cây trồng bền vững và thân thiện với môi trường.

 

Hình 1. Phakopsora pachyrhizi hình thành tổn thương, hình thành cấu trúc tiền nhiễm và tính kỵ nước trên lá đậu tương xử lý CNF.

 

Vết bệnh (A) và số vết bệnh (B) do nhiễm P. pachyrhizi trên bề mặt lá của đối chứng và lá được bao phủ bởi 0,1% sợi nano xenlulo (CNF). Cây đậu tương được phun cấy vi khuẩn P. pachyrhizi (1×105 bào tử/ml). Các bức ảnh được chụp 10 ngày sau khi cấy. Thanh chỉ 0,2 cm. Số lượng tổn thương được đếm để tính số lượng tổn thương trên mỗi cm2. Các thanh dọc cho biết sai số tiêu chuẩn của phương tiện (n = 54). Dấu * cho thấy sự khác biệt đáng kể giữa đối chứng và xử lý CNF trong Ttest (** p <0,01).

(C) Số lượng bào tử hạ đính kèm trên bề mặt lá của đối chứng và lá được bao phủ bởi 0,1% CNF. Cây đậu nành đã được phun vi khuẩn P. pachyrhizi (1 × 105 bào tử / ml) và tổng số RNA bao gồm cả đậu tương và P. pachyrhizi đã được tinh sạch. Biểu hiện tương đối của ubiquitin 3 (GmUBQ3) và P. pachyrhizi ubiquitin 5 (PpUBQ5) đậu tương được đánh giá bằng RT-qPCR. Các thanh dọc cho biết sai số tiêu chuẩn của phương tiện (n = 4).

Cấu hình giọt (D) và định lượng góc tiếp xúc (E) trên bề mặt lá trực diện và dọc của đối chứng và các lá được bao phủ bằng 0,1% CNF. Các góc tiếp xúc được đánh giá như mô tả trong phần “Vật liệu và Phương pháp”. Các thanh dọc chỉ ra sai số tiêu chuẩn của phương tiện (n = 60). Dấu * cho thấy sự khác biệt đáng kể giữa đối chứng và xử lý CNF trong trong Ttest (** p <0,01).

Sự hình thành cấu trúc tiền nhiễm P. pachyrhizi (F) và tỷ lệ phần trăm của bào tử hạ (G) trên bề mặt thân của đối chứng và các lá được bao phủ bởi 0,1% CNF, lá được xử lý bằng 0,1% DMSO và 500 mM scopoletin (Sco). Cây đậu tương được phun vi khuẩn P. pachyrhizi (1×105 bào tử/ml). Các cấu trúc tiền nhiễm được nhuộm bằng Calcofluor White và ảnh được chụp 6 giờ sau khi cấy. Thanh chỉ ra 50 μm. Tỷ lệ phần trăm của bào tử mầm (Ge) nảy mầm và các ống mầm đã biệt hóa với appressoria (Ap) được đánh giá như mô tả trong phần “Vật liệu và Phương pháp”. Các thanh dọc cho biết sai số tiêu chuẩn của phương tiện (n = 21). Sự khác biệt đáng kể (p <0,05) được biểu thị bằng các chữ cái khác nhau dựa trên trắc nghiệm sự khác biệt có ý nghĩa đáng tin cậy (HSD) của Tukey.

 

Võ Như Cầm theo Phys.org

Trở lại      In      Số lần xem: 772

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD