Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  25
 Số lượt truy cập :  33264224
Môi trường sống có tính không đồng nhất lớn có thể làm giảm số lượng các loài
Thứ năm, 03-01-2013 | 08:17:16

Làm thế nào một mét vuông đồng cỏ có thể chứa ít nhất 10 loài thực vật? Và những yếu tố nào xác định số lượng của các loài sống trong một hệ sinh thái?

 

Tạp chí Khoa học đã xác định đây là một trong số 25 câu hỏi về khoa học quan trọng nhất chưa có lời giải đáp, quan trọng đối với hiểu biết về tự nhiên và giá trị của hệ sinh thái tự nhiên đối với nhân loại. Giá trị của hàng hóa và dịch vụ được cung cấp bởi các hệ sinh thái tự nhiên được ước tính vượt quá GDP của hành tinh chúng ta.

Trong hơn 50 năm, các học thuyết truyền thống về sinh thái đã dự báo rằng số lượng các loài có thể cùng tồn tại trong một khu vực nhất định đang gia tăng với tính không đồng nhất của các điều kiện môi trường trong môi trường sống. Tiền đề này đã được kiểm nghiệm trong một nghiên cứu được tiến hành bởi Omri Allouche và Michael Kalyuzhny dưới sự hướng dẫn của Giáo sư Ronen Kadmon từ Viện Khoa học đời sống Alexander Silberman trực thuộc Đại học Hebrew của Jerusalem, phối hợp với Giáo sư Gregorio Moreno-Rueda và Giáo sư Manuel Pizarro từ đại học Granada.

Các nhà nghiên cứu khẳng định rằng, trong một môi trường sống không đồng nhất - nơi có nhiều loại môi trường sống khác nhau - có ít tài nguyên hơn và diện tích nhỏ hơn phù hợp với từng loài, khiến cho chúng dễ bị tổn thương dẫn đến sự tuyệt chủng của các loài bản địa. Điều này dẫn đến giả thuyết cho rằng môi trường sống có tính không đồng nhất lớn có thể làm giảm số lượng các loài.

Giả thuyết này đã được kiểm nghiệm bằng cách sử dụng các mô hình toán học và phân tích thực nghiệm các hệ sinh thái tự nhiên. Dự báo của nó đã được kiểm tra với một phân tích tổng hợp mới nhất của 10 bộ dữ liệu thực vật và các loài động vật từ các vùng miền khác nhau trên toàn thế giới.

Cả hai kết quả theo lý thuyết và các phân tích dữ liệu đã hỗ trợ cho giả thuyết của các nhà nghiên cứu rằng môi trường sống không đồng nhất có thể làm tăng tỷ lệ tuyệt chủng loài và do đó làm giảm số lượng các loài trong hệ sinh thái.

Những phát hiện này là rất quan trọng cho việc bảo tồn đa dạng sinh học, bởi hoạt động thực tế hiện nay là để bảo tồn các khu vực của môi trường sống có tính không đồng nhất lớn nhất và thậm chí để thực hiện các biện pháp tăng tính không đồng nhất của môi trường sống. Nghiên cứu cho thấy rằng, phương pháp tiếp cận thông thường này có thể dẫn đến những kết quả tiêu cực, đặc biệt là trong trường hợp của cảnh quan có diện tích hạn chế điển hình của các khu bảo tồn tự nhiên.

Các hệ sinh thái và các loài sinh vật trong đó đang chịu áp lực ngày càng tăng của các hoạt động của con người. Trong điều kiện đó, quản lý linh hoạt cảnh quan thiên nhiên là điều rất quan trọng. Nghiên cứu này cung cấp cho các nhà khoa học và các nhà hoạch định chính sách những hiểu biết quan trọng cho việc lựa chọn và quản lý các khu vực bảo tồn.

Nghiên cứu được đăng trong Kỷ yếu của Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia, được tài trợ bởi Quỹ khoa học Israel và Bộ Khoa học và Công nghệ Israel.
 
 
N.H. - Mard, Theo Sciencedaily.

 

Trở lại      In      Số lần xem: 1628

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD