Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  26
 Số lượt truy cập :  33265524
Nghịch lý ở ngành công nghiệp chế biến cao su
Thứ hai, 26-06-2017 | 08:09:01

Mặc dù Việt Nam là nước đứng thứ 3 trên thế giới về xuất khẩu cao su thiên nhiên, thế nhưng hàng năm các doanh nghiệp vẫn phải nhập khẩu một số chủng loại cao su nguyên liệu để đáp ứng nhu cầu kinh doanh, sản xuất, chế biến.

 

Vấn đề này đặt ra bài toán cân đối lại cơ cấu sản phẩm trong ngành cao su, nhằm hạn chế nhập khẩu cũng như phụ thuộc quá lớn vào thị trường xuất khẩu Trung Quốc.

Nghịch lý của ngành
 

Chế biến mủ cao su phục vụ xuất khẩu tại nông trường Cao su Dầu Tiếng. Ảnh: Dương Chí Tưởng/TTXVN

Theo Hiệp hội Cao su Việt Nam (VRA), phần lớn cao su nguyên liệu được nhập về nhằm để kinh doanh tạm nhập tái xuất và một phần đáp ứng nhu cầu của nhà sản xuất lốp xe tại Việt Nam. Chủng loại cao su nguyên liệu được nhập khẩu nhiều nhất là cao su khối TSR 10 và TSR 20.

Đây cũng là 2 chủng loại sản phẩm mà các doanh nghiệp ngành lốp xe hiện có nhu cầu rất lớn, thế nhưng phần lớn lại đang phải nhập khẩu, vì trong nước sản xuất với số lượng ít do giá bán không cao so với chủng loại SVR 3L.

Ông Nguyễn Đình Đông, Phó Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Công nghiệp cao su miền Nam (Casumina) cho biết, hiện Casumina đang sử dụng ¾ lượng nguyên liệu cao su thiên nhiên là có nguồn gốc trong nước, còn lại phải nhập khẩu từ Malaysia hoặc Thái Lan để phục vụ sản xuất loại lốp bố thép cao cấp.

Theo ông Đông, có sự khác biệt về chất lượng cũng như tính năng cao su SVR 10, SVR 20 của Việt Nam với cao su cùng chủng loại của các nước trong khu vực Đông Nam Á.

Khi nghiên cứu sử dụng cao su khối trong nước để sản xuất lốp xe bố thép thì Công ty gặp khó khăn do tính bám dính của bố thép và cao su khá kém. Đây cũng là lý do mà Casumina phải nhập khẩu TSR 10, TSR 20 từ nước khác để sản xuất lốp xe bố thép.

Bên cạnh đó, sản lượng sản xuất SVR 10, SVR 20 ở trong nước còn khá khiêm tốn, những doanh nghiệp đi sau về sản xuất lốp xe bố thép như Casumina hiện vẫn chưa kết nối được với các nhà sản xuất nguyên liệu để có đủ nguồn cung sản xuất.

Một khảo sát mới đây của Viện Nghiên cứu Cao su Việt Nam ở một số doanh nghiệp sản xuất săm lốp hàng đầu cũng cho thấy, khả năng đáp ứng của cao su nguyên liệu trong nước cho ngành này vẫn còn khá hạn chế.

Cụ thể, đối với Hãng lốp xe Goodyear, cao su Việt Nam chỉ mới đáp ứng một phần SVR 10, trong khi nhu cầu chủ yếu là TSR 20, trên 500.000 tấn/năm. Mặt khác, các nhà máy cao su nguyên liệu tại Việt Nam hầu hết đều có công suất thấp, chưa đáp ứng được độ đồng đều về chất lượng.

Casumina có nhu cầu TSR 10, TSR 20 khoảng 500 tấn/tháng, nhưng phải nhập từ Malaysia. Các lô SVR 10, SVR 20 của Malaysia có độ dẻo, độ nhớt thuận lợi cho việc cán luyện, ép xuất, tạo hình, lưu hóa cũng như giảm tỷ lệ phế phẩm nhiều hơn so với nguyên liệu trong nước.

Công ty cổ phần Cao su Đà Nẵng (DRC) cũng cần khoảng 18.000 tấn cao su thiên nhiên hàng năm, chủ yếu là SVR 10, SVR 20, tuy nhiên không tìm đủ nguồn cung nội địa nên buộc phải nhập khẩu. Còn Chengshin, Continential thì phản ánh chất lượng cao su tờ xông khói RSS của Việt Nam chưa bằng các nước nên chưa nhập mặt hàng này của Việt Nam.

Tham gia vào cuộc khảo sát này, ông Thái Hồng Khang, Giám đốc Trung tâm Công nghệ Cao su thuộc Viện Nghiên cứu Cao su Việt Nam cho biết, điểm đáng lưu ý khác khiến cao su nội địa ít “ghi điểm”, đó là cách làm khá “tùy hứng” của các doanh nghiệp sản xuất cao su nguyên liệu.

Khi giá cao su tăng cao, các nhà cung cấp nguyên liệu thường dồn toàn bộ cho xuất khẩu mà ít ưu tiên cho các doanh nghiệp sản xuất trong nước, đến khi giá sụt giảm thấp thì mới đẩy mạnh ở thị trường nội địa.

Điều này khiến các doanh nghiệp sản xuất lốp xe trong nước khá “đau đầu” và quay ra lựa chọn nhập khẩu thay vì sử dụng nguyên liệu tại chỗ. Ngoài vấn đề chất lượng, thì việc giá cao su SVR 10, SVR 20 trong nước cao hơn giá nhập khẩu cũng là bài toán của doanh nghiệp sản xuất lốp đặt ra hiện nay.

Có nên thay đổi cơ cấu sản phẩm?

Khai thác mủ cao su phục vụ xuất khẩu tại nông trường Cao su Dầu Tiếng. Ảnh: Dương Chí Tưởng/TTXVN

Theo bà Trần Thị Thúy Hoa, Trưởng ban Tư vấn phát triển ngành cao su thuộc Hiệp hội Cao su Việt Nam, trong cơ cấu cao su nguyên liệu của Việt Nam, hiện chủng loại SVR 10, SVR 20 chỉ chiếm tỷ trọng khoảng 15-17%, trong khi nhu cầu sử dụng thực tế lại lên đến 65-70%.

Các doanh nghiệp sản xuất nguyên liệu trong nước chỉ tập trung vào sản xuất những chủng loại cao cấp có giá bán cao như SVR 3L, SVR- CV 50, SVR-CV 60, mà ít quan tâm đầu tư dây chuyền sản xuất SVR 10, SVR 20.

Một trong những nguyên nhân khiến cao su SVR 10, SVR 20 ít được doanh nghiệp sản xuất nguyên liệu đầu tư, quan tâm, đó là do chênh lệch giá giữa SVR 10, SVR 20 với 3L.

Thống kê của VRA cho thấy, từ năm 2016 đến nay, giá SVR 10 thấp hơn SVR 3L từ 40-220 USD/tấn. Nếu doanh nghiệp đầu tư sản xuất SVR 3L sẽ có lợi nhuận cao hơn. Tuy nhiên, nhu cầu thị trường lại đang “nghiêng” về SVR 10, SVR 20.

Trong ngành sản xuất săm lốp, SVR 3L chủ yếu được dùng để sản xuất săm, tuy nhiên thị trường hiện lại ưa chuộng sản phẩm lốp không săm nên tiêu thụ SVR 3L ngày càng khó khăn.

Dự báo của các chuyên gia cũng cho biết, đến năm 2020, nhu cầu của thế giới về cao su thiên nhiên là 15 triệu tấn, trong đó chỉ có 150.000 tấn SVR 3L. Nếu các doanh nghiệp không giảm sản lượng 3L và vẫn đầu tư mở rộng sản xuất thì có nguy cơ thừa trên 300.000 tấn.

Các doanh nghiệp Việt Nam có nguy cơ phải đối mặt với vấn đề tiêu thụ khó khăn, bị ép giá, yêu sách chất lượng từ người mua…

Trong khi đó ở Việt Nam, tiềm năng của ngành công nghiệp săm lốp trong nước là rất lớn. Hiện số lượng các nhà sản xuất săm lốp xe ở Việt Nam còn khá ít.

Với sự phát triển kinh tế, xã hội và định hướng của Chính phủ mới đây về ngành công nghiệp sản xuất ô tô nguyên chiếc và xuất khẩu lốp xe, thì trong 5-10 năm tới, sản lượng săm lốp sẽ tăng lên đáng kể.

Điều này đang đặt ra một hướng phát triển mới cho các doanh nghiệp trong ngành cao su. Một số doanh nghiệp đã bắt đầu chuyển hướng sang đầu tư mới dây chuyền sản xuất cao su SRV 10, SRV 20 thay vì SRV 3L như trước đây.

Ông Trần Thanh Phụng, Phó Tổng Giám đốc Công ty TNHH MTV Cao su Phú Riềng cho biết, hiện Công ty mới đầu tư dây chuyền sản xuất SVR 10 và đang là đối tác cung cấp nguyên liệu cho các hãng lốp xe lớn như Goodyear, Kumho...

Tuy nhiên sản lượng SVR 10 chỉ chiếm 20-25% trong tổng sản lượng của doanh nghiệp. Việc đầu tư thêm dây chuyền để tăng sản lượng SVR 10, SVR 20 nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường đang được doanh nghiệp cân nhắc và phải tính toán kỹ trong thời gian tới trên cơ sở đảm bảo lợi nhuận.

Việc đầu tư dây chuyền mới để sản xuất cao su SVR 10, SVR 20 đòi hỏi doanh nghiệp phải có chiến lược kinh doanh mới để tiếp cận với thị trường và lộ trình phù hợp.

Quyết định sản xuất chủng loại nào để hiệu quả nhất theo từng thời điểm là của doanh nghiệp, tuy nhiên việc chuyển đổi này được cho là sẽ hướng tới sự phát triển bền vững của doanh nghiệp và ngành cao su Việt Nam trong thời gian tới.
 

Hứa Chung - TTXVN.

Trở lại      In      Số lần xem: 1005

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Hơn 120 quốc gia ký kết Hiệp ước Paris về biến đổi khí hậu
  • Một số giống đậu tương mới và mô hình chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất lúa tại Đông Nam Bộ và Đồng Bằng Sông Cửu Long
  • Các nước cam kết chống biến đổi khí hậu
  • 12 giống hoa được công nhận bản quyền
  • Thảo luận việc quản lý nước theo cơ chế thị trường
  • Lượng nước ngầm trên Trái đất đạt 23 triệu kilômét khối
  • Sản xuất hồ tiêu thế giới: Hiện trạng và Triển vọng
  • Triển vọng tích cực cho nguồn cung ngũ cốc toàn cầu năm 2016
  • Cây trồng biến đổi gen với hai tỷ ha (1996-2015); nông dân hưởng lợi >150 tỷ usd trong 20 năm qua
  • Cơ hội cho gạo Việt
  • Việt Nam sẽ áp dụng cam kết TPP cho thêm 40 nước
  • El Nino có thể chấm dứt vào cuối tháng 6
  • Chi phí-hiệu quả của các chương trình bệnh động vật "không rõ ràng"
  • Xuất khẩu hồ tiêu: Gậy ông đập lưng ông
  • Đất có thể đóng vai trò quan trọng trong việc giảm lượng khí nhà kính
  • Quản lý và phát triển thương hiệu gạo Việt Nam
  • Những cách nổi bật để giải quyết những thách thức về hệ thống lương thực toàn cầu
  • Lập bản đồ các hộ nông dân trồng trọt trên toàn thế giới
  • Hỗ trợ chuyển đổi từ trồng lúa sang trồng ngô
  • Nếu không được kiểm soát, cỏ dại sẽ gây thiệt hại kinh tế tới hàng tỷ USD mỗi năm
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD