Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  22
 Số lượt truy cập :  33262190
Nghiên cứu: Thay thế bột đậu tương trong khẩu phần ăn của lợn
Thứ tư, 13-03-2013 | 08:13:51

Các nhà nghiên cứu trường Đại học Illinois đã kiểm tra khả năng tiêu hoá axit amin trong dầu hạt cải và các sản phẩm khác có thể thay thế bột đậu nành trong khẩu phần ăn cho lợn.

 

Đậu tương là cây trồng lấy hạt có dầu lớn nhất trên thế giới, hơn xa các loại cây trồng khác", ông Hans Stein, giáo sư khoa học động vật cho biết. "Nhưng hạt cải dầu, hạt bông, và hạt hướng dương được trồng ở những khu vực đậu tương không thể phát triển. Khi dầu được lấy ra khỏi hạt, bột còn sót lại, giống như bột đậu tương".

Nhóm nghiên cứu của ông đã xem xét khả năng tiêu hóa axit amin trong cả hạt cải dầu nguyên hạt và bột hạt cải dầu cũng như trong bột hạt bông, hạt hướng dương nguyên hạt, bột hạt hướng dương đã tách vỏ, và bột hạt hướng dương chưa tách vỏ, những sản phẩm gần đây có rất ít nghiên cứu về khả năng tiêu hóa. Nghiên cứu lấy bột đậu nành để so sánh.
 
Khả năng tiêu hóa của các axit amin trong bột hạt cải dầu, bột hạt bông, bột hạt hướng dương thấp hơn so với bột đậu nành. Lý do chính cho khả năng tiêu hóa giảm là do các sản phẩm này có hàm lượng chất xơ cao hơn so với bột đậu nành. Tất cả các sản phẩm trên, ngoại trừ bột hạt hướng dương đã tách vỏ là có vỏ, trong khi bột đậu nành không có.
 
Ngoài ra, Stein giải thích: "Đậu nành không chứa nhiều dầu như dầu hạt cải và dầu hạt hướng dương. Khi bạn càng lấy ra được nhiều dầu hơn, vỏ hạt còn lại sẽ càng chiếm một tỉ lệ lớn hơn – và đó chính là nơi bạn có toàn bộ sợi. Vì vậy, hạt hướng dương chứa trên 50% dầu, và hạt cải dầu chứa khoảng 40% dầu, trong khi hạt đậu tương chỉ có 19 đến 20% dầu, do đó, bạn tập trung vào sợi nhiều hơn là sản xuất bột của chúng".
 
Trong số các loại bột thay thế, bột hạt hướng dương có giá trị lớn nhất cho khả năng tiêu hóa protein thô và các axit amin lớn nhất. Trong bột hạt bông, giá trị cho hầu hết các axit amin giống như, hoặc lớn hơn, các axit amin trong hạt cải dầu hoặc bột hạt cải dầu.
 
Bột hạt cải dầu và bột hạt bông có chứa hàm lượng lớn nhất của protein thô và các faxit amin không thể thiếu sau bột đậu tương. Stein cho biết hạt bông không được sử dụng nhiều như nó có thể trong chăn nuôi lợn vì nó có chứa gossypol, một chất chống dinh dưỡng có thể ngăn lợn sử dụng lysine.
 
"Nhưng hiện nay có nhiều loại sản phẩm chứa gossypol thấp, và nó đã được chứng minh rằng nếu bạn thêm đủ chất sắt cho chế độ ăn, nó có thể kìm hãm gossypol, từ đó sẽ không cản trở lysine", ông giải thích. "Vì vậy, bạn có thể sử dụng chút ít hạt bông trong chế độ ăn và nó sẽ rất tốt. Bột hạt bông có khả năng tiêu hóa tương đối tốt so với bột dầu hạt cải và bột hạt hướng dương, vì vậy nó có thể được sử dụng nhiều hơn so với mức được sử dụng hiện nay".
 
Stein nói thêm rằng bột hạt hướng dương và bột hạt cải dầu cần phải có giả rẻ hơn nhiều so với giá bột đậu nành trước khi chúng trở thành một sự thay thế kinh tế bởi vì chúng làm giảm khả năng tiêu hóa axit amin và có hàm lượng thấp hơn các các axit amin và năng lượng so với bột đậu nành.
 
Các nhà nghiên cứu đã không xác định tỷ lệ bao gồm cho các sản phẩm hạt cải dầu, hạt bông và hạt hướng dương. Stein cho biết rằng điều này có thể là đối tượng nghiên cứu trong tương lai.
 
Nghiên cứu "Khả năng tiêu hóa axit amin trong các sản phẩm hạt cải dầu, hạt bông và hạt hướng dương làm thức ăn cho lợn" được xuất bản trong Tạp chí Khoa học động vật.
 
PTT - Mard, theo Pigprogress.
Trở lại      In      Số lần xem: 1453

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD