Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  17
 Số lượt truy cập :  33227103
Nghiên cứu đặc tính sinh học, sinh thái của một số sâu hại chính trên cây cà chua và biện pháp phòng chống tổng hợp ở tỉnh Lâm Đồng
Thứ ba, 11-11-2014 | 13:51:34

Cây cà chua là cây rau ăn quả cao cấp được trồng từ rất lâu ở Việt Nam và được tỉnh Lâm Đồng chú trọng và phát triển mạnh thành những vùng chuyên canh.  Nhờ ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao như ghép cây giống, dùng màng phủ…, năng suất cà chua  ở Lâm Đồng được cải thiện rõ rệt, có nơi năng suất quả đạt 100 tấn/ha/vụ.

 

Do thâm canh cao, sâu bệnh thường xuyên phát sinh và là yếu tố cản trở lớn sản  xuất cà chua  ở tỉnh Lâm Đồng.  Mặc dù  người trồng cà chua  đã  được tập huấn nhiều về IPM, VietGAP, nhưng  vẫn lạm dụng thuốc hóa học BVTV.Đây là khó khăn của tỉnh Lâm Đồng trong giám sát chất lượng, cấp chứng chỉ, xây dựng thương hiệu cà chua an toàn. Để khắc phục vấn đề này cần phải coi quản lý dịch hại tổng hợp đóng một vai trò quan trọng trong sản xuất cà chua ở tỉnh Lâm Đồng.

 

Cho đến nay, ở Việt Nam có rất ít nghiên cứu về sâu hại cây cà chua, chưa có quy trình IPM trên cây cà chua.  Đặc biệt, ở tỉnh Lâm  Đồng chưa có nghiên cứu chuyên sâu về sâu hại cây cà chua. Vì vậy Nghiên cứu sinh Nguyễn Văn Sơn đã tiến hành thực hiện đề tài: “Nghiên cứu đặc  tính sinh học,  sinh thái  của một số  sâu  hại  chính trên cây  cà  chua  và  biện  pháp  phòng chống tổng hợp  ở tỉnh Lâm Đồng”.

 

Kết luận đã đạt: i).Trong các năm 2012-2014 đã xác định được 14 loài sâu hại trên cây cà chua ở Đức Trọng, Đơn Dương (Lâm Đồng). Trong đó,phổ biến nhất làbọ phấn trắng thuốc lá Bemisia tabaci,  ruồi đục lá L. huidobrensisvà bọ xít mùthuốc lá N. tenuis. Đây làlần đầu cung cấp dẫn liệu về thành phần loài sâu hại cây cà chua ở tỉnh Lâm Đồng và ghi nhận bổ sung loài ruồi đục láLiriomyza huidobrensisvào danh sách sâu hại cây cà chua  ở Việt Nam. Lạm dụng thuốc BVTV là nguyên nhân gây nên sự nghèo nàn về thành phần loài chân đốt trên cây cà chua ở tỉnh Lâm Đồng. ii).  Thời gian hoàn thành vòng  đời của  bọ xít mùthuốc lá là 86,4-88,7 ngày khi nuôi trên cây cà chua sạch ở  18,5-22,4C và 61,4-71,3%  ẩm độ. Khi nuôi bằng ấu trùng bọ phấn trắng thuốc lá trong cùng điều kiện nhiệt độ và ẩm độ, thời gian hoàn thành vòng đời ngắn hơn so với khi nuôi bằng cây cà chua sạch (74,0 ngày so với 81,0 ngày). Một trưởng thành cái chỉ đẻ được trung bình là 10,9-18,1 quả trứng phụ thuộcthức ăn.Thời gian đẻ trứng trung bình là 10,3-14,3 ngày. Bọ xít mù thuốc lá  N. tenuis  là loài ăn tạp, xuất hiện phổ biến nhưng không gây hại đáng kể cho cây cà chua, có khả năng tiêu diệt ấu trùng và nhộng bọ phấn trắng thuốc lá rất cao. Trong cả đời,một cá thể  bọxít mù  thuốc lá có thể tiêu diệt được 1.026,8-1.042,9 ấu trùng tuổi 1 hay  919,8-945,5 nhộng  bọ phấn trắng thuốc lá. Cần phải lợi dụng tính ăn động vật của bọ xít mù thuốc lá để hạn chế số lượng phấn trắng thuốc lá trên cây cà chua. Iii).  Ở nhiệt độ  21,9-25,5C và  ẩm độ là  48,5-66,0%, thời gian hoàn thành vòng  đời của bọ phấn trắng thuốc lá  B. tabacitrung bình là 25,84-28,54 ngày. Sức đẻ trứng của trưởng thành cái đạt thấp,  trung bình là 84,0-94,9 trứng/cái với thời gian đẻ trứng  trung bình là 7,6-8,4 ngày.  Ở điều kiện tỉnh Lâm Đồng,bọ phấn trắng thuốc lá trong một năm 24 có thể hoàn thành được số thế hệ (7,8-8,0 thế hệ) ít hơn nhiều so với ở vùng Hà Nội (15,3 thế hệ). iv).Tại Đơn Dương, Đức Trọngtrong  các  năm 2012-2013,  các loài sâu hại chính (bọ phấn trắngthuốc lá, ruồi đục lá)  đều bắt đầu xuất hiệnvào thời điểm sautrồng 7 ngày, riêng sâu  xanhxuất hiện muộn hơn (vào khoảng 35-42 ngày sau trồng). Mật độ của các loài sâu hại chínhnày đều gia tăng dần theo giai đoạn sinh trưởng của cây cà chua và đạt đỉnh cao mật độ quần thể vàothời gian khoảng 70-84 ngày sau trồng. Các loài sâu hại chính  trên cây cà chua  ở Lâm Đồng thường xuất hiện quanh năm. Mật độ quần thể của chúng trong mùa khô thường cao hơn trong mùa mưa và đạt thấp nhất vào tháng 5. v).Với sức ép thâm canh và lạm dụng thuốc BVTV, thành phần thiên địch trên cây cà chua  ở Đức Trọng, Đơn Dương rất nghèo nàn,  không  thể hiện rõ đượcvai trò  điều tiết số lượng của những sâu hại chính trên cây cà chua ở Lâm Đồng. Giống cà chua không có  ảnh hưởng rõ ràng trong  biến động  số lượngcủa những sâu hại chính trên cây cà chua ở Lâm Đồng. vi).  Áp dụng các biện pháp phòng chống  tổng hợp  sâu hại  từ vườn  ươm bằng thuốc dragon, dầu khoáng SK,vệ sinh đồng ruộng, phủ  màng nilon,treo giấy bạc ở ngọn cây cà chua để xua đuổi côn trùngđã hạn chế  được số lượng bọ phấn trắng thuốc lá, ruồi đục lá hại. Đồng thời, sử dụng một số chế phẩm sinh học và thảo mộc (delfin, neem nim xoan xanh green,sokupi) haythuốc hóa học (sword, oshin, actara, map winner,...) để hạn chế sâu hại chính trên cây cà chua  sẽ  làm giảm đáng kể chi phí liên quan đến sử dụng thuốc BVTV, góp phần làm tăng hiệu quả kinh tế trong sản xuất cà chua ở Lâm Đồng.

Trở lại      In      Số lần xem: 1300

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD