Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  25
 Số lượt truy cập :  32993921
Nghiên cứu đặc điểm hấp phụ, giải phóng lân và sử dụng silicate để nâng cao hàm lượng lân hữu dụng trong đất lúa Nam Việt Nam
Thứ sáu, 21-11-2014 | 13:04:45

Thiếu lân  (P)  được xem là yếu tố hạn chế năng suất quan trọng và bón lân là một trong những biện pháp góp phần nâng cao sản lượng cây trồng hiện nay trên nhiều vùng đất. Đặc biệt trên diện tích lớn những đất chua phèn có khả năng hấp phụ  P cao, hiện tượng cây trồng thiếu lân xảy ra không phải chỉ do đất nghèo lân  mà còn do phần lớn lân trong đất bị giữ chặt với các hợp chất sắt, nhôm dưới dạng khó tan mà cây trồng không thể hấp thu. Đặc tính hấp phụ và giải phóng lân là những yếu tố có tính quyết định đến khả năng cung cấp lân của đất cũng như liều lượng bón và hiệu lực của phân lân đối với cây lúa.

 

Tại một số quốc gia (Mỹ, Ấn Độ, Nhật), sử dụng các loại xỉ và phân bón chứa silicate cho thấy có thể cải thiện tình trạng dinh dưỡng lân trong đất, nâng cao năng suất cây trồng. Ở  Việt Nam,  sử dụng silicate  nhằm làm tăng hàm lượng lân hữu dụng trong đất hầu như chưa được nghiên cứu. Các anion silicate có khả năng cạnh tranh mạnh mẽ với các anion phosphate trên các vị trí hấp phụ của oxide sắt, nhôm do đó có thể làm giảm lượng lân bị hấp  phụ trong đất. Nghiên cứu ứng dụng silic trong canh tác lúa nhằm tiến đến việc phối chế làm đa dạng hóa mặt hàng phân lân hoặc tạo ra các loại phân đa yếu tố, chứa P và Si phù hợp với điều kiện đất đai và nhu cầu của cây lúa ở miền Nam là một hướng đi có tính khả thi.  Xuất phát từ cơ sở khoa học và nhu cầu thực tế, NSC Trần Thị Tường Linh đã thực hiện đề tài  “Nghiên cứu đặc điểm hấp phụ, giải phóng lân và sử dụng silicate để nâng cao hàm lượng lân hữu dụng trong đất lúa Nam Việt Nam”.

 

Kết quả đạt được:

 

i)  Ba phương trình đẳng nhiệt Langmuir đơn, Langmuir kép và Freundlich đều minh họa tốt mối quan hệ giữa nồng độ P trong dung dịch cân bằng và lượng P hấp phụ trong các đất nghiên cứu. Tùy mục đích nghiên cứu có thể sử dụng một trong ba phương trình để tính toán khả năng hấp phụ P của đất lúa miền Nam.  Có mối tương quan rất chặt giữa các thông số hấp phụ tính toán theo 3 phương trình này.  Khả năng hấp phụ P của đất xác định theo ba phương trình có cùng quy luật và được xếp theo thứ tự sau: Đất phèn > đất phù sa > đất xám.  Khả năng hấp phụ P của đất tương quan thuận rất chặt với hàm lượng chất hữu cơ, sét và sắt nhôm vô định hình; tương quan ở mức độ thấp hơn  với hàm lượng sắt nhôm tự do; tương quan nghịch rất chặt với pH đất; không phát hiện được mối tương quan với hàm lượng P tổng số, P Bray 2 và với sắt nhôm tổng số.

 

ii)  Tăng hàm lượng hữu cơ trong đất kéo theo sự gia tăng hàm lượng oxyhydroxide sắt nhôm vô định hình trong đất.  Sau khi phá hủy chất hữu cơ, khả năng hấp phụ P tối đa  (Qmax)  của đất giảm 44-67% so với đất không phá hủy hữu cơ. Bổ sung đồng thời chất hữu cơ dạng oxalate cùng với P vào dung dịch hoặc bón oxalate vào đất ngập nước trước khi cho đất tiếp xúc với dung dịch chứa P làm giảm giá trị Qmax từ 19-76%.

 

iii)  Khả năng giải phóng P tương quan nghịch rất chặt với khả năng hấp phụ P của đất, hàm lượng sắt nhôm vô định hình, hàm lượng sét, hàm lượng chất hữu cơ, hàm lượng sắt nhôm tự do, nhôm tổng số;  tương quan thuận rất chặt với pH đất, không tương quan với hàm lượng P tổng số và P Bray 2.  Tốc độ và lượng P giải phóng  xác định bằng phương pháp sử dụng anionite  theo thứ tự nhỏ dần  như sau: Đất xám > đất phù sa > đất phèn. Lượng P giải phóng chiết bằng anionite tương quan thuận với lượng P cây lúa hút chặt hơn so với sự tương quan giữa lượng P chiết theo phương pháp Onioani với lượng P cây lúa hút. Có thể ứng dụng phương pháp chiết lân bằng anionite  để đánh giá khả năng cung cấp lân của đất lúa miền Nam.

 

iv)  Bổ  sung đồng thời Si dạng  silicate natri (Na2SiO3) hoặc silicofluoride natri (Na2SiF6)  cùng với P trong dung dịch hoặc bón silicate natri và silicofluoride natri vào đất ngập nước trước khi cho đất tiếp xúc với dung dịch chứa P đều làm giảm khả năng hấp phụ P  của đất (trung bình giá trị  Qmax giảm 15-27%). Tác dụng của hợp chất silicate lên khả năng hấp phụ P của đất ở vùng nồng độ P trong dung dịch cân bằng thấp (0,2 mg/l) rõ hơn so với tác dụng lên Qmax (trung bình giá trị P0,2  giảm 41-74%). Ảnh hưởng của  silicate natri và silicofluoride natri trong trường hợp bổ sung cùng lúc với P làm giảm khả năng hấp phụ P của đất mạnh hơn so với trường hợp bón silicate natri và silicofluoride natri vào đất trước. Trong hai hợp chất silic thí nghiệm, ảnh hưởng của silicofluoride natri làm sụt giảm khả năng hấp phụ P của đất mạnh hơn so với ảnh hưởng của silicate natri. Bổ sung silicate natri và silicofluoride natri cũng có khả năng làm tăng khả năng giải phóng P của đất.

 

v)  Trên cây lúa, bón riêng từng hợp chất silic hoặc bón kết hợp silic với phân lân đều làm tăng lượng P cây hút, tăng lượng N cây hút, tăng sinh khối và số nhánh/cây. Bón silicate natri hoặc silicofluoride  natri  làm giảm hàm lượng sắt (Fe), nhôm (Al), tăng tỷ lệ P/Fe và P/Al trong cây lúa thời kỳ 25 ngày sau  gieo trong điều kiện đất nhiễm phèn. Hiệu quả của việc bón silicate natri hoặc silicofluoride  natri đối với năng suất lúa tùy  thuộc vào từng loại đất. Trên đất phèn và đất xám, bón silicate natri hoặc silicofluoride  natri trên nền  không bón lân cho bội thu 5-13% so với  đối chứng. Bón silicate natri hoặc silicofluoride natri kết hợp với bón lân cho bội thu 10-18% so với đối chứng, nhưng không khác biệt rõ so với công thức bón lân. Trên đất phù sa, bón  silicate natri hoặc silicofluoride  natri chưa thể hiện hiệu lực trong việc cải thiện năng suất lúa.

Trở lại      In      Số lần xem: 1753

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD