Nghiên cứu đặc điểm hấp phụ, giải phóng lân và sử dụng silicate để nâng cao hàm lượng lân hữu dụng trong đất lúa Nam Việt Nam
Thứ sáu, 21-11-2014 | 13:04:45
|
Thiếu lân (P) được xem là yếu tố hạn chế năng suất quan trọng và bón lân là một trong những biện pháp góp phần nâng cao sản lượng cây trồng hiện nay trên nhiều vùng đất. Đặc biệt trên diện tích lớn những đất chua phèn có khả năng hấp phụ P cao, hiện tượng cây trồng thiếu lân xảy ra không phải chỉ do đất nghèo lân mà còn do phần lớn lân trong đất bị giữ chặt với các hợp chất sắt, nhôm dưới dạng khó tan mà cây trồng không thể hấp thu. Đặc tính hấp phụ và giải phóng lân là những yếu tố có tính quyết định đến khả năng cung cấp lân của đất cũng như liều lượng bón và hiệu lực của phân lân đối với cây lúa.
Tại một số quốc gia (Mỹ, Ấn Độ, Nhật), sử dụng các loại xỉ và phân bón chứa silicate cho thấy có thể cải thiện tình trạng dinh dưỡng lân trong đất, nâng cao năng suất cây trồng. Ở Việt Nam, sử dụng silicate nhằm làm tăng hàm lượng lân hữu dụng trong đất hầu như chưa được nghiên cứu. Các anion silicate có khả năng cạnh tranh mạnh mẽ với các anion phosphate trên các vị trí hấp phụ của oxide sắt, nhôm do đó có thể làm giảm lượng lân bị hấp phụ trong đất. Nghiên cứu ứng dụng silic trong canh tác lúa nhằm tiến đến việc phối chế làm đa dạng hóa mặt hàng phân lân hoặc tạo ra các loại phân đa yếu tố, chứa P và Si phù hợp với điều kiện đất đai và nhu cầu của cây lúa ở miền Nam là một hướng đi có tính khả thi. Xuất phát từ cơ sở khoa học và nhu cầu thực tế, NSC Trần Thị Tường Linh đã thực hiện đề tài “Nghiên cứu đặc điểm hấp phụ, giải phóng lân và sử dụng silicate để nâng cao hàm lượng lân hữu dụng trong đất lúa Nam Việt Nam”.
Kết quả đạt được:
i) Ba phương trình đẳng nhiệt Langmuir đơn, Langmuir kép và Freundlich đều minh họa tốt mối quan hệ giữa nồng độ P trong dung dịch cân bằng và lượng P hấp phụ trong các đất nghiên cứu. Tùy mục đích nghiên cứu có thể sử dụng một trong ba phương trình để tính toán khả năng hấp phụ P của đất lúa miền Nam. Có mối tương quan rất chặt giữa các thông số hấp phụ tính toán theo 3 phương trình này. Khả năng hấp phụ P của đất xác định theo ba phương trình có cùng quy luật và được xếp theo thứ tự sau: Đất phèn > đất phù sa > đất xám. Khả năng hấp phụ P của đất tương quan thuận rất chặt với hàm lượng chất hữu cơ, sét và sắt nhôm vô định hình; tương quan ở mức độ thấp hơn với hàm lượng sắt nhôm tự do; tương quan nghịch rất chặt với pH đất; không phát hiện được mối tương quan với hàm lượng P tổng số, P Bray 2 và với sắt nhôm tổng số.
ii) Tăng hàm lượng hữu cơ trong đất kéo theo sự gia tăng hàm lượng oxyhydroxide sắt nhôm vô định hình trong đất. Sau khi phá hủy chất hữu cơ, khả năng hấp phụ P tối đa (Qmax) của đất giảm 44-67% so với đất không phá hủy hữu cơ. Bổ sung đồng thời chất hữu cơ dạng oxalate cùng với P vào dung dịch hoặc bón oxalate vào đất ngập nước trước khi cho đất tiếp xúc với dung dịch chứa P làm giảm giá trị Qmax từ 19-76%.
iii) Khả năng giải phóng P tương quan nghịch rất chặt với khả năng hấp phụ P của đất, hàm lượng sắt nhôm vô định hình, hàm lượng sét, hàm lượng chất hữu cơ, hàm lượng sắt nhôm tự do, nhôm tổng số; tương quan thuận rất chặt với pH đất, không tương quan với hàm lượng P tổng số và P Bray 2. Tốc độ và lượng P giải phóng xác định bằng phương pháp sử dụng anionite theo thứ tự nhỏ dần như sau: Đất xám > đất phù sa > đất phèn. Lượng P giải phóng chiết bằng anionite tương quan thuận với lượng P cây lúa hút chặt hơn so với sự tương quan giữa lượng P chiết theo phương pháp Onioani với lượng P cây lúa hút. Có thể ứng dụng phương pháp chiết lân bằng anionite để đánh giá khả năng cung cấp lân của đất lúa miền Nam.
iv) Bổ sung đồng thời Si dạng silicate natri (Na2SiO3) hoặc silicofluoride natri (Na2SiF6) cùng với P trong dung dịch hoặc bón silicate natri và silicofluoride natri vào đất ngập nước trước khi cho đất tiếp xúc với dung dịch chứa P đều làm giảm khả năng hấp phụ P của đất (trung bình giá trị Qmax giảm 15-27%). Tác dụng của hợp chất silicate lên khả năng hấp phụ P của đất ở vùng nồng độ P trong dung dịch cân bằng thấp (0,2 mg/l) rõ hơn so với tác dụng lên Qmax (trung bình giá trị P0,2 giảm 41-74%). Ảnh hưởng của silicate natri và silicofluoride natri trong trường hợp bổ sung cùng lúc với P làm giảm khả năng hấp phụ P của đất mạnh hơn so với trường hợp bón silicate natri và silicofluoride natri vào đất trước. Trong hai hợp chất silic thí nghiệm, ảnh hưởng của silicofluoride natri làm sụt giảm khả năng hấp phụ P của đất mạnh hơn so với ảnh hưởng của silicate natri. Bổ sung silicate natri và silicofluoride natri cũng có khả năng làm tăng khả năng giải phóng P của đất.
v) Trên cây lúa, bón riêng từng hợp chất silic hoặc bón kết hợp silic với phân lân đều làm tăng lượng P cây hút, tăng lượng N cây hút, tăng sinh khối và số nhánh/cây. Bón silicate natri hoặc silicofluoride natri làm giảm hàm lượng sắt (Fe), nhôm (Al), tăng tỷ lệ P/Fe và P/Al trong cây lúa thời kỳ 25 ngày sau gieo trong điều kiện đất nhiễm phèn. Hiệu quả của việc bón silicate natri hoặc silicofluoride natri đối với năng suất lúa tùy thuộc vào từng loại đất. Trên đất phèn và đất xám, bón silicate natri hoặc silicofluoride natri trên nền không bón lân cho bội thu 5-13% so với đối chứng. Bón silicate natri hoặc silicofluoride natri kết hợp với bón lân cho bội thu 10-18% so với đối chứng, nhưng không khác biệt rõ so với công thức bón lân. Trên đất phù sa, bón silicate natri hoặc silicofluoride natri chưa thể hiện hiệu lực trong việc cải thiện năng suất lúa. |
Trở lại In Số lần xem: 1753 |
[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
|