Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Lai tạo giống cà chua Cherry cho năng suất cao, chất lượng tốt

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  14
 Số lượt truy cập :  31160513
Nghiên cứu mới phát hiện hệ thống miễn dịch thực vật có thể thích ứng với những điều kiện bất thuận không sự sống
Thứ tư, 07-09-2022 | 10:00:06

Các thụ thể nhận dạng mẫu mang lại khả năng chịu căng thẳng do muối ở Arabidopsis thaliana sau khi nhận biết các mẫu phân tử liên quan đến tổn thương cognate. A, Kiểu hình của cây con A. thaliana (trái) sau 6 ngày tiếp xúc với 150 mM NaCl và (phải) 5 ngày tiếp xúc với 175 mM NaCl, có hoặc không xử lý trước Pep2 hoặc Pep1. B, Tỷ lệ sống sót (trung bình ± sai số tiêu chuẩn của giá trị trung bình [s.e.m.], n ≥ 50, hai lần lặp lại) của cây con sau khi chúng tiếp xúc với 150 mM NaCl trong thời gian được chỉ định, có và không có 0,1 µM Pep1 tiền xử lý. Dấu hoa thị *** và ** biểu thị P <0,001 và 0,01 tương ứng, sử dụng phép thử t hai phía so với giá trị tương ứng của cây được xử lý mô hình. C, Trọng lượng tươi trung bình (trung bình ± s.e.m., n ≥ 30, bốn lần lặp lại) của cây con sau 5 ngày tiếp xúc với 150 mM NaCl, có và không có 0,1 µM Pep1 tiền xử lý. Dấu hoa thị (*) cho biết P <0,05 khi sử dụng phép thử t hai bên so với giá trị tương ứng của cây được xử lý mô hình; N.S. = không đáng kể. D, Hàm lượng diệp lục (trung bình ± s.e.m., n ≥ 30, bốn lần lặp lại) trong cây con sau 5 ngày tiếp xúc với 150 mM NaCl, có và không có 0,1 µM Pep1 tiền xử lý. Các chữ cái trên thanh chỉ ra P <0,05 bằng cách sử dụng các bài kiểm tra sự khác biệt có ý nghĩa trung thực (HSD) của Tukey. E, Kiểu hình của cây con sau 5 ngày tiếp xúc với 175 mM NaCl, có hoặc không có 0,1 µM của flg22 hoặc elf18 tiền xử lý. F, Tỷ lệ sống (trung bình ± s.e.m., n ≥ 20, hai lần lặp lại) của cây con sau 6 ngày tiếp xúc với 175 mM NaCl, có và không có 0,1 μM flg22 hoặc elf18 tiền xử lý. Dấu hoa thị (**) cho biết P <0,01 bằng cách sử dụng các bài kiểm tra HSD của Tukey so với giá trị của cây dại (WT) được xử lý mô hình. Nguồn: Molecular Plant-Microbe Interactions.

 

Khi chúng ta nghĩ về thực vật, cụm từ "Căng thẳng xuất hiện" thường không được nghĩ đến. Tuy nhiên, sau tất cả, chúng được xử lý như miễn thanh toán hóa đơn và giải quyết các câu hỏi hiện sinh. Do đó, những thay đổi về môi trường - cả sự sống (yếu tố sinh học) và không sự sống (yếu tố phi sinh học) - tạo ra các yếu tố bất lợi, gây ảnh hưởng đáng kể cho thực vật. Do đó, các phương pháp mới để cải thiện khả năng chống chịu và miễn dịch của cây trồng trong bối cảnh biến đổi khí hậu là rất quan trọng.

 

Khi các thụ thể miễn dịch trên bề mặt tế bào của thực vật phát hiện ra các dấu hiệu phân tử thông báo những kẻ tấn công sinh vật (chẳng hạn như vi khuẩn, nấm, côn trùng hoặc những loài khác), chúng hình thành phức hợp thụ thể với các protein đối tác, báo hiệu sự bảo vệ của tế bào chống lại mầm bệnh. Một số dấu hiệu phân tử này cũng được tạo ra khi các tác nhân gây căng thẳng phi sinh học làm hư hỏng các tế bào thực vật. Chúng bao gồm các peptit gây hại hoặc các mảnh vụn tế bào, biểu hiện của sự hư hại thực vật. Tín hiệu miễn dịch phản ứng với căng thẳng phi sinh học này thiếu các nguyên tắc và cơ chế quản lý rõ ràng cho đến khi công bố nghiên cứu gần đây do Eliza Loo thuộc Viện Khoa học và Công nghệ Nara dẫn đầu.

 

Kết quả được công bố trên tạp chí Molecular Plant-Microbe Interactions cho thấy tín hiệu miễn dịch cũng có thể tăng cường khả năng chống chịu của thực vật đối với các tác nhân gây căng thẳng do yếu tố phi sinh học như độ mặn tăng cao như thế nào. Tác giả bài báo Yusuke Saijo nhận xét: “Kích hoạt trước thụ thể miễn dịch cho phép thực vật tăng biên độ và tái lập trình biểu hiện gen cảm ứng mặn khi tiếp xúc với độ mặn cao”, giúp tăng cường khả năng chịu mặn.

 

Điều đáng ngạc nhiên là họ phát hiện ra các thụ thể miễn dịch và các thành phần truyền tín hiệu tạo ra khả năng chịu mặn ngay cả ở những cây trồng bị các vi khuẩn không gây bệnh đe dọa. Điều này cho thấy thực vật có thể cảm nhận và bắt đầu các phản ứng thích ứng với các căng thẳng phi sinh học, khi phát hiện ra những thay đổi trong các dấu hiệu do các vi sinh vật sống trong thực vật thể hiện cùng với sự biến động của điều kiện môi trường và có được một loạt các chiến thuật chống chịu với những điều kiện bất thuận.

 

“Phát hiện kết quả này đã mở rộng quan điểm của chúng tôi về cách thực vật cảm nhận và thích ứng với những thay đổi môi trường, đặc biệt là muối và các căng thẳng thẩm thấu đe dọa sản xuất cây trồng trong nông nghiệp. Điều đó cũng đưa ra một ý tưởng mới rằng các thụ thể miễn dịch giám sát các vi sinh vật sống trong thực vật, từ đó điều chỉnh sự thích nghi của thực vật với môi trường”, Saijo giải thích. Nguồn cung cấp lương thực toàn cầu của chúng ta phụ thuộc vào sức sinh trưởng của thực vật và khả năng vượt qua các tác nhân gây căng thẳng.

 

Nghiên cứu này đặt nền tảng cho các nghiên cứu sâu hơn liên kết tín hiệu căng thẳng sinh học và phi sinh học trong khoa học thực vật. Hiểu được mối quan hệ phức tạp sâu sắc giữa thực vật với môi trường sự sống và không sự sống xung quanh chúng là điều cần thiết để thúc đẩy sức khỏe thực vật và cuối cùng là sức khỏe con người.

 

Nguyễn Thị Quỳnh Thuận theo Phys.org

Trở lại      In      Số lần xem: 186

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cậy lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD