Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  17
 Số lượt truy cập :  33257587
Nghiên cứu tăng khả năng cố định nitơ của đậu tương
Thứ sáu, 10-10-2014 | 07:27:39

Trợ lý giáo sư Senthil Subramanian đã trở thành nhà khoa học thực vật đầu tiên tại trường Đại học bang South Dakota, Mỹ nhận được giải thưởng của Khoa Phát triển nghề nghiệp sớm của Quỹ khoa học quốc gia (NSF).

 

Khoản tài trợ 5 năm với gần 660.000 USD sẽ hỗ trợ cho nghiên cứu xác định các cơ chế của thực vật trong việc hình thành một cách trực tiếp hoặc là phối hợp hình thành các nốt sần ở rễ đậu tương. Sử dụng kiến thức này, Subramanian hy vọng sẽ phát triển các giống đậu tương có hiệu quả hơn trong việc tạo ra các nốt sần và cố định nitơ bằng cách điều chỉnh các cơ chế phân tử điều tiết các chức năng này. Nếu điều này có thể được thực hiện với các cây họ đậu, chẳng hạn như đậu tương thì có lẽ đặc tính này có thể được chuyển sang các cây trồng không cố định đạm khác, ông bổ sung thêm.

Theo Subramanian, cây trồng tạo ra nhiều nitơ hơn sẽ đòi hỏi ít phân bón hơn, do đó làm giảm chi phí sản xuất và làm giảm khả năng rò rỉ phân bón có thể ảnh hưởng đến môi trường.

Trong khi nitơ rất dồi dào trong khí quyển, nó không ở một dạng để cây trồng có thể sử dụng, Subramanian giải thích. Các loại họ đậu như cây đậu tương, có khả năng hình thành các mối quan hệ đôi bên cùng có lợi với vi khuẩn trong đất để cố định nitơ.

"Cây trồng chứa các vi khuẩn trong một cấu trúc mà tại đó các điều kiện sinh hóa có lợi cho các vi khuẩn cố định đạm", Subramanian cho biết. Cây trồng cung cấp các vi khuẩn với  hyđrát các-bon và nhận lại nitơ.

Vi khuẩn này được gọi là Rhizobium xâm nhập vào các tế bào rễ của cây con và kích hoạt sự hình thành các nốt sần để vi khuẩn cư ngụ, ông giải thích. Trong các nốt sần này có hai khu vực riêng biệt (một khu vực cố định nitơ và một khu vực khác vận chuyển nó đến cho cây) được hình thành từ các tế bào rễ từ trước đó.

Biểu hiện của các gien cụ thể trong một tế bào rễ cụ thể sẽ xác định số phận của nó - vùng mà tại đó nó sẽ hoạt động, Subramanian giải thích, do đó, ông xác định những biểu hiện gien trực tiếp của RNA rất nhỏ bé để đạt được sự khác biệt này.

"Chúng tôi cần biết tín hiệu gì khiến cho một tế bào có đóng góp cho một vùng này hoặc vùng khác", ông giải thích.

Các RNA nhỏ bé quy định mức độ hoạt động của các gien mục tiêu. Điều này có nghĩa là duy trì hoạt động của nó theo một ngưỡng cụ thể, hạn chế hoạt động với các loại tế bào cụ thể và định thời gian tăng và giảm mức độ hoạt động. Những tương tác này ảnh hưởng đến sự phát triển của các nốt sần của thực vật và khả năng cố định nitơ tiếp sau của nó.

Thông qua nghiên cứu được tài trợ bởi Bộ Nông nghiệp Mỹ, Subramanian và nhóm nghiên cứu của ông đã chứng minh cách thức 160 RNA nhỏ bé ảnh hưởng đến sự phát triển của các nốt sần.

Nghiên cứu của Subramanian đã xác định được gần 150 RNA nhỏ bé có thể ảnh hưởng đến khả năng hình thành nốt sần thông qua sự hỗ trợ của Trạm thí nghiệm nông nghiệp và Hội đồng Nghiên cứu Đậu tương South Dakota.

Đối với dự án NSF Career, ông sẽ xác định vai trò quan trọng của các RNA nhỏ bé cụ thể trong sự hình thành của hai vùng nốt sần.
 
M.T. - Mard, theo Sciencedaily.
Trở lại      In      Số lần xem: 1306

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD