Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  20
 Số lượt truy cập :  33262806
Nguồn gen toàn cầu của dê đang bị đe dọa nghiêm trọng
Thứ bảy, 02-02-2013 | 07:07:15

Trong số các loài vật nuôi trong nhà, dê không chỉ là loài quan trọng mà còn là một nguồn để tồn tại ở các quốc gia nghèo khó, và nhiều giống đang có nguy cơ biến mất, theo các nhà nghiên cứu cho thấy khi tìm hiểu ảnh hưởng toàn cầu của loài vật này.

 

goat.jpg

Dê cashmere được nuôi ở một trang trại ở Illano (Asturias). Ảnh: SERIDA

 

Một nghiên cứu từ Sở Nghiên cứu và Phát triển Nông phẩm Khu vực (SERIDA) đã phân tích tình hình quần thể dê toàn cầu. Nghiên cứu xem xét hiện trạng của các giống khác nhau, nhiều ý nghĩa của việc bảo tồn chúng, sự tương tác với các loài động vật khác (hoang dã và nuôi) và các hậu quả của việc chăn thả dê từ quan điểm môi trường.

 

"Nguy cơ nguồn gen của dê biến mất đã tăng lên do hệ thống chăn nuôi thâm canh sử dụng một số lượng giống rất hạn chế. Kỳ lạ là, sự mất mát lớn nhất trong các nguồn tài nguyên di truyền của các loài động vật này diễn ra ở Châu Âu, mặc dù tình trạng này vẫn chưa rõ ở nhiều khu vực,” theo Rocío Rosa García, nhà nghiên cứu tại SERIDA và đồng tác giả của nghiên cứu, giải thích.

 

Tiếng xấu cho dê bắt nguồn từ một trong những đức tính tốt chủ yếu của nó, đó là nó có khả năng phi thường trong việc thích ứng với điều kiện môi trường khó khăn nhất ở những nơi mà các loài vật nuôi khác sẽ không thể tồn tại.

 

"Thực tế là việc chăn thả những con vật này có thể gây tác hại đối với môi trường, nhưng các hệ sinh thái trở nên quá tải vì các kỹ thuật xử lý chưa thỏa đáng,” các nhà khoa học cho biết.

 

Theo số liệu của Tổ chức Nông Lương của Liên hợp quốc (FAO), hiện nay theo quan sát thì số lượng dê lớn nhất ở những quốc gia nghèo nhất và đặc biệt là những nước có điều kiện môi trường khó khăn và các vùng miền núi, sa mạc và bán sa mạc.

 

"Ở những khu vực nghèo, các cộng đồng nghèo khó rất nhiều và thường thì dê là nguồn protein động vật duy nhất trong chế độ ăn uống của họ," Rosa García giải thích.

 

Nhóm nghiên cứu dẫn đầu bởi Koldo Osoro Otaduy, giám đốc Khu vực Hệ thống Sản xuất Động vật tại SERIDA, đã thực hiện phần lớn nghiên cứu thực địa trong nhiều khu vực mà ở đó vai trò của dê rất phù hợp và có những điểm tương đồng nhất định với các môi trường khắc nghiệt ở những nơi khác trên thế giới.

 

"Nhiều dự án quốc gia và quốc tế đã được thực hiện trong những khu vực ít thuận lợi, như dãy núi Asturias, là nơi có độ dốc lớn, đất nghèo dinh dưỡng, một dân số đang lão hóa và nguy cơ suy giảm dân số cao cũng như nguy cơ mất đi các hoạt động truyền thống,” các nhà nghiên cứu cho hay.

 

Dê: những “tính tốt” và “tật xấu”

 

Xử lý chăn thả kém, nghĩa là không xem xét loài được nuôi và môi trường sống phù hợp nhất của chúng, là nguyên nhân chính gây ra các tác hại mà dê có thể đem lại cho môi trường.

 

Ví dụ như, sự tăng trưởng không kiểm soát được của dê cashmere để tăng lượng ​​lông có giá cao của nó có nghĩa là trong một số trường hợp các hệ sinh thái trở nên quá tải. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến thảm thực vật mà còn ảnh hưởng đến một số loài bản địa nhất định ở Ấn Độ, Trung Quốc và Mông Cổ.

 

Nghiên cứu cũng xem xét một số lượng lớn các trường hợp mà trong đó dê đóng vai trò quan trọng trong bảo vệ môi trường. Những trường hợp này bao gồm sử dụng chúng để phòng chống cháy trong những khu vực có nhiều bụi cậy và để kiểm soát dịch bệnh ở thực vật ngoại lai có thể đem lại nguy cơ cho các hệ sinh thái.

 

"Chúng tôi muốn thực hiện một bản đánh giá toàn cầu, xem xét tất cả các vùng khác nhau trên thế giới, từ đỉnh núi Hy Mã Lạp Sơn cho đến các khu vực nhiệt đới, và phân tích ở mức độ nào dê cạnh tranh với các loài động vật địa phương ở từng khu vực và liệu nó có gây trở ngại cho sự sống còn của những loài nhạy cảm nhất hay không," Rosa García cho biết.

 

http://www.eurekalert.org/pub_releases/2013-01/f-sf-tgg012313.php

 

Thanh Vân - Dosdongnai - Theo Eurekalert.

 

Trở lại      In      Số lần xem: 1494

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD