Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  29
 Số lượt truy cập :  33250239
Phát hiện RNA có thể giúp thực vật chống chịu nóng và khô hạn
Thứ năm, 28-09-2017 | 14:33:30

Các nhà khoa học của Texas A&M AgriLife Research vừa khám phá ra một loại RNA có khả năng tăng tính chống chịu hạn và chịu mặn của cây cải xoong tai chuột Arabidopsis thaliana.

 

Phát hiện này có thể giúp mở ra phương pháp mới để cải thiện khả năng chịu hạn và chịu mặn của nhiều loài cây, trong đó có cây trồng, Phó giáo sư, Tiến sĩ Liming Xiong, Viện nghiên cứu AgriLife, Dallas cho biết.

 

“Đây là phát hiện đầu tiên về đoạn RNA không mã hóa protein lncRNA quy định tính chống chịu của thực vật đối với các tác nhân phi sinh lý bất lợi bên ngoài”, ông Xiong nói.

 

Đoạn RNA không mã hóa mà nhóm nghiên cứu của ông tìm ra trong loài cây cải xoong tai chuột cho thấy chúng có mật số rất nhỏ khi cây ở trong điều kiện bình thường, nhưng mật số các lncRNA này tăng lên ở những cây gặp điều kiện khô hạn hay nhiễm mặn, ông nói. Theo dõi sự tăng lên về mật số của đoạn RNA không mã hóa lncRNA cho thấy sự tương ứng với tăng khả năng chịu hạn và chịu mặn của cây khi so sánh với những cây có mức độ lcnRNA không thay đổi.

 

Phần lớn RNA mã hóa để sản xuất ra proteins.Những đoạn RNA không mã hóa, hay ncRNA, không mã hóa để tạo protein nhưng có thể ảnh hưởng đến quá trình giải mã gen thể hiện trong vô số cách khác nhau. Như vậy, chúng được xem là bộ điều chỉnh của các quá trình sinh học quan trọng, ông Xiong nói.

 

“Có nhiềul oại RNA không mã hóa khác nhau”, ông nói. “loại RNA không mã hóa có kích thước nhỏ, hay sncRNA, đã được chú ý nhiều vào những năm gần đây, nhưng những đoạn RNA không mã hóa có kích thước lớn, hay lncRNA, như đoạn mà chúng tôi tìm thấy có tác động đến khả năng chịu hạn và chịu mặn của cây cả xoong tai chuột thì chức năng sinh học vẫn chưa được biết đến”.

 

Điều khác biệt cơ bản giữa đoạn RNA không mã hóa ngắn (sncRNA) và dài (lncRNA) là số lượng của nucleotide, và cấu trúc của RNA, lncRNA có số nucleotide lớn hơn (thường là trên 200).

 

Ông Xiong cho rằng nghiên cứu sự ảnh hưởng của lncRNA là một hướng tiếp cận mới để nghiên cứu tính chịu hạn và chịu mặn của cây.

 

“Hầu hết những nghiên cứu hiện nay về cải thiện chống chịu của cây đều chưa chú trọng đến những đoạn lncRNA mà chỉ nghiên cứu những đoạn gen có mã hóa protein” ông nói. “Tuy nhiên, sự vận dụng những gen mã hóa protein này thường làm suy giảm sự sinh trưởng và phát triển của thực vật”


Tuy nhiên, lncRNA nghiên cứu bởi nhóm của Xiong có thể được tinh chỉnh mà không có bất kỳ thiệt hại rõ ràng đến sức khỏe của cây, ông nói.


"Chỉ là mới bắt đầu, nhưng chúng ta có thể đang kề cận một phương pháp tiếp cận hoàn toàn mới để khắc phục hạn hán và chịu mặn ở thực vật, bao gồm cây thực phẩm.Xiong nói.“Bước tiếp theo của chúng tôi sẽ là nghiên cứu mật số lncRNA ở những cây khác ngoài cây cải xoong tai chuột ra và để kiểm tra liệu nó có thể cải thiện khả năng chịu hạn và khả năng chịu mặn trên một dải rộng hơn hay không”.

 

Lê Thị Thanh theo Sciencedaily.

Trở lại      In      Số lần xem: 1420

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD