Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  19
 Số lượt truy cập :  33206729
Quá trình lên men, ép đùn cải thiện giá trị dinh dưỡng của cám lúa mì trong khẩu phần ăn của lợn
Thứ ba, 28-10-2014 | 08:13:36

Quá trình lên men cũng như ép đùn sẽ cải thiện giá trị dinh dưỡng của cám lúa mì. Tuy nhiên, quá trình lên men của cám lúa mì có vẻ hiệu quả hơn so với ép đùn.

 

Đây là một số kết luận từ một nghiên cứu mới đây của các nhà khoa học Áo và Thụy Sĩ. Bởi vì lúa mì có thể được coi là loại ngũ cốc được sản xuất nhiều nhất trên toàn thế giới sau ngô, các nhà khoa học đã tiến hành một thử nghiệm về khả năng tiêu hoá của lợn với mục đích nghiên cứu những ảnh hưởng của quá trình lên men, ép đùn của cám lúa mì bao hàm trong một chế độ ăn cơ bản. Kết quả được đo lại bao gồm hệ số tiêu hóa biểu kiến (CTTAD) liên quan đến vật chất khô, chất hữu cơ, prôtêin thô, chất xơ thô, chiết xuất ête, tinh bột, năng lượng, phốt pho và canxi.

Các nhà khoa học kết luận rằng, cám lúa mì lên men và ép đùn gây ra một số ảnh hưởng đáng kể tới hệ số tiêu hóa biểu kiến của một số chất dinh dưỡng thiết yếu, khoáng chất và năng lượng khi đưa vào thức ăn cơ bản cho lợn. Đặc biệt là, quá trình lên men dường như là chiến lược hiệu quả hơn. Các nhà nghiên cứu cho biết rằng, "tác động tích cực tới hệ số tiêu hóa biểu kiến của phốt pho và canxi chỉ có thể được quan sát thấy ở nhóm nuôi bằng cám lúa mì lên men".

Các nhà nghiên cứu đã đưa ra được kết luận này nhờ thực hiện một thử nghiệm, trong đó chín con lợn đang trong giai đoạn phát triển được đo lại hệ số CTTAD trong chế độ ăn cơ bản chứa các loại cám lúa mì khác nhau, và để chứng minh sự khác biệt tương đối về CTTAD trong chế độ ăn dưới dạng là kết quả của việc thay đổi cám lúa mì.

Cám lúa mì được sử dụng dưới dạng tự nhiên, như cám ủ lên men với Lactobacillus paracasei và Lactobacillus plantarum và cám lúa mì ép đùn (EWB).

Cám lúa mì biến thể bao gồm 200 g/kg trong chế độ ăn cơ bản thiếu phốt pho.

Các kết quả thu được cho thấy CTTAD của vật chất khô tăng lên khi lợn ăn thức ăn có chứa cám lúa mì lên men (+2%), thay vì cám lúa mì ở dạng gốc của nó.

Tương tự như vậy, CTTAD của các chất hữu cơ cũng đã tăng lên với cám lúa mì lên men (+2%) so với cám lúa mì ở dạng gốc của nó.

Ngoài ra, CTTAD của các chất xơ thô (tăng 9%) đã được cải thiện với cám lúa mì lên men cũng như với cám lúa mì ép đùn, có liên quan đến cám lúa mì ở dạng gốc của nó.

Các CTTAD của tro đã được cải thiện với cám lúa mì lên men (+ 14%) so với cám lúa mì ở dạng gốc của nó.

Tương tự, các giá trị CTTAD của phốt pho và canxi cũng đã được nâng lên khi cho lợn ăn chế độ có cám lúa mì lên men. Phốt pho tiêu hóa được đã tăng lên trong nhóm cho ăn cám lúa mì lên men so với các nhóm được nuôi bằng cám lúa mì ở dạng gốc của nó (+ 35%) và cám lúa mì ép đùn (+ 53%).

Tỷ lệ tiêu hóa canxi cũng đã thu được kết quả tương tự.

Trong khi CTTAD của năng lượng đã tăng lên ở nhóm cho ăn cám lúa mì lên men (+3%) và cám lúa mì ép đùn (+2%) so với nhóm ăn cám lúa mì ở dạng gốc, cân bằng dinh dưỡng và CTTAD của tinh bột là không bị ảnh hưởng bởi các phương pháp xử lý.

Tuy nhiên, CTTAD của chiết xuất ete đã tăng lên trong nhóm cho ăn cám lúa mì lên men (tăng 40%) và cũng có sự cải thiện ở nhóm cho ăn cám lúa mì ép đùn (+30%) so với nhóm cho ăn cám lúa mì ở dạng tự nhiên. 

Nghiên cứu được thực hiện bởi M Kraler, K Schedle, KJ Domig, H Michlmayr và W Kneifel của trường Đại học Tài nguyên thiên nhiên và Khoa học đời sống (BOKU), Vienna, Áo và D. Heine từ Buehler AG, Thụy Sĩ. Nghiên cứu được đăng tải trên tạp chí Animal Feed Science and Technology.
 
M.T. - Mard, theo Allaboutfeed.
Trở lại      In      Số lần xem: 1179

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD