Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  25
 Số lượt truy cập :  32988365
Thúc đẩy mối quan hệ thân thiện giữa đa dạng sinh học và cảnh quan: Ngoài canh tác hữu cơ
Thứ hai, 16-08-2021 | 06:48:47

Nguồn: Pixabay/CC0 Public Domain.

 

Một nhóm nghiên cứu quốc tế do Đại học Göttingen dẫn đầu đã đặt ra vấn đề liệu nông nghiệp hữu cơ có phải là giải pháp thay thế duy nhất cho nông nghiệp thông thường để thúc đẩy đa dạng sinh học trong cảnh quan nông nghiệp không. Theo các tác giả, một bức tranh mô tả cảnh quan của môi trường sống tự nhiên và các khu vực canh tác quy mô nhỏ và đa dạng là chìa khóa để thúc đẩy đa dạng sinh học trên quy mô lớn của cả nông nghiệp thông thường và nông nghiệp hữu cơ. Họ cho rằng những người có liên quan đến việc thay đổi mô hình tương ứng trong nông nghiệp sẽ nhận ra điều này.

 

Nhóm nghiên cứu chỉ trích chứng nhận hữu cơ chủ yếu tập trung vào việc cấm các hóa chất nông nghiệp tổng hợp. Điều này dẫn đến hạn chế những lợi ích đối với đa dạng sinh học, nhưng lại dẫn đến thiệt hại cao về sản lượng, mặc dù nông nghiệp đang trở nên thâm canh và chuyên môn hóa hơn. Giáo sư Teja Tscharntke, nhóm Nông học tại Đại học Göttingen, giải thích: “Các khu vực được canh tác theo chứng nhận hữu cơ có thêm loài thứ ba, nhưng không đạt mức năng suất như canh tác thông thường”.

 

Tuy nhiên, do cần diện tích canh tác lớn hơn, các lợi thế về đa dạng sinh học sẽ biến mất. Hơn nữa, nói đến nông nghiệp hữu cơ là nói không với việc sử dụng thuốc trừ sâu. Tscharntke cho rằng thuốc trừ sâu được cho phép miễn là chúng có nguồn gốc tự nhiên. Ví dụ, nho, vườn cây ăn quả và cả rau quả được phun thuốc bảo vệ thực vật nhiều lần và lặp lại, chủ yếu là các sản phẩm chứa đồng và dư lượng của các sản phẩm này tích tụ vào đất. Ngành nông nghiệp hữu cơ đã không đạt được những mong muốn như những năm đầu tiên: Canh tác hữu cơ không phải lúc nào cũng được thực hiện trong các trang trại gia đình; Các trang trại độc canh hữu cơ thường có quy mô tương tự như các trang trại thông thường; và rau thường được trồng trong nhà kính. Ở khu vực Địa Trung Hải, việc trồng rau trong nhà kính đang phá hủy toàn bộ cảnh quan, tuy nhiên tỷ lệ phát triển nông nghiệp ngày càng tăng ở đây không hề khó trong việc đạt được chứng nhận hữu cơ.

 

Nhà nghiên cứu nông học nhấn mạnh rằng cảnh quan với tính đa dạng cây trồng cao, với diện tích canh tác nhỏ và chiếm ít nhất 1/5 môi trường sống gần tự nhiên có thể thúc đẩy đa dạng sinh học đáng kể hơn là việc nhận được chứng nhận hữu cơ. Cảnh quan phát triển trên diện tích canh tác nhỏ đa dạng sinh học hơn nhiều lần so với cảnh quan có diện tích canh tác lớn và khả thi như nhau trong cả nông nghiệp hữu cơ và nông nghiệp thông thường. Họ dẫn chứng rằng cảnh quan nơi có diện tích canh tác một hecta có thể là nơi cư trú của số loài thực vật và côn trùng nhiều gấp sáu lần nơi có diện tích canh tác lớn sáu hecta. Sự đa dạng trong canh tác cũng có thể tăng gấp đôi số loài và tăng đáng kể khả năng kiểm soát dịch hại sinh học cũng như thụ phấn thành công.

 

Ngay cả khi Thỏa thuận Xanh của EU đặt ra mục tiêu đạt 25% thị phần nông nghiệp hữu cơ vào năm 2030, thì vẫn cần đưa 75% nông nghiệp thông thường vào chiến lược đa dạng sinh học.

 

Mai Thanh Trúc theo Phys.org

Trở lại      In      Số lần xem: 269

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD