Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  22
 Số lượt truy cập :  33265902
Tìm thấy ngô trong thức ăn của người dân ở ven biển Peru cách đây 5000 năm
Thứ ba, 05-03-2013 | 07:57:44

Trong nhiều thập kỷ, các nhà khảo cổ học đã nỗ lực rất lớn khi tìm hiểu về sự xuất hiện của một nền văn minh Nam Mỹ khác biệt trong thời kỳ Late Archaic (từ năm 3000 đến năm 1800 trước Công nguyên) ở Peru. Một trong những câu hỏi dai dẳng, vẫn chưa có câu trả lời đó là vai trò của nông nghiệp và đặc biệt là ngô trong sự tiến hóa của các xã hội phức tạp và mang tính tập trung hóa. Cho đến nay, lý thuyết được nói đến nhiều nhất đó là, tài nguyên biển, chứ không phải là nông nghiệp và ngô, cung cấp công cụ kinh tế dẫn đến sự phát triển của nền văn minh trong khu vực Andean của Peru.

 

maize in diets of peruvian.jpg
Ngô màu tím của người Peru (Ảnht: Ildi / Fotolia)

 

Hiện nay, nghiên cứu đột phá của người phụ trách bảo tàng Field là Tiến sĩ Jonathan Haas đang đem lại những kiến thức mới cho vấn đề này bằng cách xem xét bằng chứng vi mô được tìm thấy trong đất, trên các công cụ bằng đá.

 

Sau nhiều năm nghiên cứu, Haas và các đồng nghiệp đưa ra kết luận rằng, trong thời kỳ Late Archaic, ngô thật sự là một thành phần chính trong bữa ăn của người dân sống trong khu vực Norte Chico ở Peru, một khu vực có sự hưng thịnh về văn hoá đáng chú ý vào thiên niên kỷ thứ 3 trước công nguyên. Nghiên cứu của họ được đăng tải trên Kỷ yếu của Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia Mỹ (PNAS).

 

"Những bằng chứng mới này cho thấy khá rõ ràng rằng, sự xuất hiện của nền văn minh ban đầu ở Nam Mỹ thực sự dựa vào nông nghiệp như trong các nền văn minh lớn khác ở vùng Lưỡng Hà, Ai Cập, Ấn Độ, và Trung Quốc," Haas cho biết.

 

Haas cùng nhóm nghiên cứu tập trung vào các khu vực ở thung lũng sa mạc Pativilca và Fortaleza ở phía bắc Lima, nơi nhiều bằng chứng về thực vật cho thấy có sự chế biến, sản xuất và tiêu thụ ngô rất lớn từ năm 3000 đến năm 1800 trước Công nguyên. Họ đã nghiên cứu tổng cộng 13 khu vực. Hai địa điểm được nghiên cứu kỹ nhất là Caballete, nằm trong đất liền cách Thái Bình Dương khoảng sáu dặm và có sáu gò rộng lớn sắp xếp theo hình chữ "U", và Huaricanga, nằm trong đất liền cách Thái Bình Dương khoảng 14 dặm và có một số gò nhỏ hơn rất nhiều nằm ở một trong hai bên.

 

Các nhà khoa học tập trung vào một số khu vực tại các địa điểm này bao gồm nhà ở, hố rác, phòng nghi lễ, và khu cắm trại. Tổng cộng có 212 ngày cacbon phóng xạ thu được trong tất cả quá trình khai quật.

 

Những tàn tích lớn còn lại của ngô (bắp ngô, lá, thân cây và trái) rất hiếm.

 

Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu đã xem xét sâu hơn và phát hiện thấy có rất nhiều bằng chứng nhỏ từ ngô ở nhiều dạng khác nhau trong các cuộc khai quật. Một trong những dấu hiệu rõ ràng nhất là sự phong phú của phấn hoa ngô trong các mẫu đất thời tiền sử. Tuy ngô được trồng ở khu vực này ngày nay, nhưng họ có thể loại bỏ được các yếu tố hiện đại vì hạt phấn ngô hiện đại lớn hơn và chuyển sang màu đỏ đậm khi được nhuộm thuốc màu. Ngoài ra, các mẫu đất hiện đại luôn chứa phấn từ Thông Úc (Casuarinaceae Casuarina), một loại thực vật xâm lấn từ Úc không bao giờ có trong các mẫu thời tiền sử.

 

Phần lớn của các mẫu đất phân tích đến từ các hố rác kết hợp với kiến ​​trúc nhà ở. Các mẫu khác được lấy từ những nơi như sàn nhà trong phòng và các mảnh vụn xây dựng. Trong 126 mẫu đất (không kể các công cụ bằng đá và sỏi phân) được phân tích, có 61 mẫu có chứa phấn hoa Z. mays. (Trong thực tế, Z. mays là phấn hoa phổ biến thứ hai được tìm thấy trong tổng số tất cả các mẫu, chỉ đứng sau phấn hoa từ cỏ nến, là loài có hoa thụ phấn nhờ gió). Điều này phù hợp với tỷ lệ phần trăm của phấn hoa ngô được tìm thấy trong phân tích phấn hoa từ nhiều địa điểm ở các nơi khác trên thế giới, nơi ngô là cây trồng chính và tạo thành nguồn calo chính trong ăn uống.

 

 Haas và các đồng nghiệp cũng phân tích những tàn tích trên các công cụ bằng đá được sử dụng để cắt, cào, giã và nghiền. Các công cụ được kiểm tra để tìm bằng chứng về những gì còn sót lại của thực vật, đặc biệt là các loại ngũ cốc tinh bột và phytolith. Trong số 14 công cụ bằng đá được phân tích, có 11 công cụ có các hạt tinh bột ngô trên bề mặt hay sử dụng và có 2 công cụ có phytolith ngô.

 

Sỏi phân cung cấp bằng chứng trực tiếp tốt nhất về chế độ ăn uống thời tiền sử. Trong số 62 mẫu sỏi phân các loại được phân tích – gồm 34 mẫu từ con người, 16 mẫu từ chó thuần chủng, và những mẫu khác từ nhiều loại động vật khác nhau – thì có 43 mẫu (69%) có chứa hạt tinh bột ngô, phytolith, hoặc các tàn tích khác. Trong số 34 mẫu sỏi phân của người, có 23 mẫu (68%) có bằng chứng về ngô. Sỏi phân cũng cho thấy rằng cá, chủ yếu là cá cơm, là nguồn protein chính trong bữa ăn, nhưng không phải là nguồn calo chính.

 

Các nhà nghiên cứu kết luận rằng sự phổ biến của ngô trong nhiều trường hợp và ở nhiều địa điểm cho thấy, loại cây lương thực thuần hóa này đã được trồng rộng rãi trong khu vực này và tạo thành một phần quan trọng trong chế độ ăn uống địa phương, và nó chỉ không được sử dụng vào những dịp lễ. Nghiên cứu cuối cùng khẳng định tầm quan trọng của nông nghiệp trong việc đem lại một cơ sở vững mạnh về kinh tế cho sự nổi lên của các xã hội phức tạp, tập trung hóa khi xuất hiện các nền văn minh của thế giới.

 

http://www.eurekalert.org/pub_releases/2013-02/f-sf-tns022613.php

Thanh Vân - Dostdongnai, Theo Eurekalert

 

Trở lại      In      Số lần xem: 1657

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD