Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  20
 Số lượt truy cập :  33213335
Tổng quan về thị trường điều hữu cơ
Chủ nhật, 24-05-2015 | 05:27:13

TS. Nguyễn Công Thành

Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

 

Sự phát triển thị trường thực phẩm hữu cơ là một câu chuyện ngược dòng thời gian trở về những năm 1960 khi nhu cầu thực phẩm hữu cơ đầu tiên cho các sản phẩm nông nghiệp bền vững được trồng không sử dụng hóa chất nông nghiệp. “Hữu cơ” không phải là một đặc điểm của sản phẩm mà là một phương pháp sản xuất. Thị trường  hữu cơ dịch chuyển vào luồng chủ đạo từ những năm 1990 và ngày nay thương mại hữu cơ gần đến con số 30 tỷ USD toàn cầu, và vẫn còn đang phát triển. Hiệp hội Thương mại Hữu cơ của Mỹ (The  Organic Trade  Association  of  the  US)  dự đoán tốc độ tăng trưởng hàng năm khoảng  18% mỗi năm từ năm 2010.

 

Nhũng thị trường hữu cơ chủ yếu là Châu Âu, Hoa Kỳ, và Nhật Bản. Nhu cầu gia tăng đến từ nhu cầu ăn thực phẩm lành mạnh và quan tâm đến môi trường. Ngày nay chính phủ và các công ty bắt đầu thấy sự tiến bộ của việc sản xuất thực phẩm hữu cơ và trong nhiều trường hợp nhiều doanh nghiệp và tổ chức phi chính phủ nhìn thấy cơ hội để phát triển nông nghiệp trong những nước kém phát triển thông qua mô hình hữu cơ.  

Những nhà khởi xướng sản phẩm hữu cơ quan tâm tác động của hóa chất nông nghiệp đối với môi trường cũng như sức khỏe con người. Ngày nay, thương mại thực phẩm hữu cơ chiếm khoản 3% so với tất cả thực phẩm toàn cầu và gần 30 tỷ USD. Qua một thập kỷ, đất đai trồng hữu cơ đã gia tăng từ 5 ha đến 31 triệu ha trong 120 nước.

 

Ở Hoa Kỳ, gần 40%  của sản phẩm hữu cơ hiện nay được bán thông qua các siêu thị. Trái cây tươi và rau là phổ biến trong sản phẩm hữu cơ, nhưng bơ sữa hữu cơ, thịt và những thực phẩm khô cũng có sẵn khắp nơi.

 

Trong khi chưa có con số xác định về nhập khẩu hạt điều hữu cơ, bởi vì số liệu của hải quan không phân biệt sản phẩm hữu cơ và sản phẩm thông thường nhập khẩu, thương mại hữu cơ dự đoán hạt điều hữu cơ là 3-3.5% so tổng sản phẩm hữu cơ nhập khẩu. Giá bán buôn trả cho điều hữu cơ là từ 20-25% cao hơn giá cho sản phẩm hạt điều thông thường.

 

Thị trường điều hữu cơ của Châu Âu

 

Châu Âu nhập khẩu hạt điều đã gia tăng nhanh chóng trong những năm gần đây. Việc này có thể tiếp tục phát triển trong các nước mới gia nhập EU, và sau đó trong các nước còn lại của Tây Âu và Nga. Sau đây là tóm lược từ những người mua được phỏng vấn ở Hà Lan, Đức, Anh và Thụy Sỹ.

 

Thị trường Châu Âu cho điều hữu cơ (còn gọi biologic hoặc bio trong một số nước Châu Âu) vượt trội là Đức và Anh. Hà Lan và Pháp cũng nhập khẩu nhiều và 4 nước này chiếm khoảng 75%  nhập khẩu điều hữu cơ, đúng bằng lượng họ đã nhập khẩu hạt điều thông thường. Hà Lan cũng quan trọng mặc dù thị trường nhỏ. Ngoài ra còn có các nước Địa Trung Hải và Tây Âu…  

 

Thị trường điều hữu cơ vẫn còn nhỏ nhưng đang phát triển. Chưa có con số chính thức về quy mô, song về thương mại dự đoán trong khoảng 2000 – 2500 tấn mỗi năm. Điều này cho thấy điều hữu cơ trong khoảng 3-3,5% trong tổng nhập khẩu. Cũng khó dự đoán quy mô thị trường Hoa Kỳ, con số tin cậy nhất trong khoảng 3000 tấn mỗi năm. Quy mô thị trường gần bằng con số tham gia thị trường của sản phẩm hữu cơ nói chung. Nhập khẩu từ các thị trường khác không đáng kể. Cũng có nguồn cho rằng thị trường toàn cầu điều hữu cơ xấp xỉ 5250 tấn mỗi năm hoặc khoảng 2% tổng thương mại nhập khẩu toàn cầu. Bình luận của giới thương mại cho rằng tăng trưởng điều hữu cơ sẽ tiếp tục tăng trong khoảng 10% mỗi năm. Trong một số vùng, tăng trưởng rất nanh chóng, gấp đôi hàng năm, mặc dù từ mức xuất phát rất thấp.

 

Sản xuất điều hữu cơ 

 

Sự phát triển điều hữu cơ những năm gần đây đã được kích thích từ việc gia tăng nguồn cung. Giống như một số sản phẩm trồng ở Châu Phi và Châu Á, điều được cho là hữu cơ bởi “mặc định” trong đó, sự tiến triển tự nhiên của sản xuất điều không đòi hỏi nhiều và nông dân không có khả năng đầu tư hóa chất nông nghiệp. Dự đoán 70% sản xuất điều của thế giới là hữu cơ, nhưng chỉ phần nhỏ trong số đó được cấp chứng nhận.  

 

Diện tích duy trì hữu cơ bởi mặc định bị giảm khi hóa chất và phân bón được khuyến cáo sử dụng. Lý do dẫn đến thiếu chứng nhận điều hữu cơ khác nhau từ nước này đến nước khác, bao gồm những nước sau đây:

 

Brazil

 

Hóa chất phân bón được sử dụng rộng rãi và sản xuất hữu cơ sẽ không phát triển trên diện rộng. Có một số nông trại hữu cơ và những nhà sản xuất nhỏ ở Brazil xuất khẩu sản phẩm hữu cơ. Qua nghiên cứu, các doanh nghiệp lớn như Iracema cho thấy rằng hữu cơ không được họ quan tâm. Họ thường sản xuất hữu cơ nhưng chỉ chuyển xí nghiệp từ truyền thống sang hữu cơ trong một thời kỳ nhất định trong năm vì không có kinh tế. Sản xuấ hữu cơ ở Brazil sẽ duy trì đối với những người sản xuất nhỏ.

 

Ấn Độ

 

- Trong khi hầu hết diện tích là sản xuấ hữu cơ mặc định như đã nói trên, có một số nhỏ trong đó sản xuất được chứng nhận hữu cơ. Chính phủ Ấn Độ chỉ khởi xướng Chương trình Quốc gia Sản xuất Hữu cơ từ năm 2000. Một năm sau đó, một bộ phận cấp phép được thiết lập. Đến nay, chỉ còn một bộ phận cấp phép. Hơn nữa, không có hệ thống cho sản phẩm nội địa. Cấp phép bởi các tổ chức nước ngoài quá đắt tiền trong khi đang gia tăng sản xuất hữu cơ trong nước.

 

- Điều truyền thống là cây năng suất thấp. Ở Ấn Độ, năng suất điều trung bình chỉ 800 kg/ha. Họ nhấn mạnh mục tiêu gia tăng sản xuất cả diện tích và năng suất cho những cây đang trồng trên đất truyềnn thống trồng điều. Khuynh hướng sản xuất hữu cơ có thể thấy giảm năng suất.

 

- Nông dân quả thật có thể cải thiện sản xuất từ mức trung bình thấp 800 kg/ha lên 1000 kg/ha/năm có thể cải thiện thu nhập khoảng 7000 rupee/175 USD, con số có ý nghĩa trong điều kiện một nước có mức thu nhập bình quân đầu người 730 USD  (Văn phòng Thống kê Trung ương, Ấn Độ, 2009). Từ đó việc sử dụng hóa chất đã gia tăng đáng kể trong những năm gần đây nhằm tăng năng suất.

 

- Thị trường nội địa Ấn Độ chiếm khoảng 40% hạt điều của cả nước, nhưng chưa có nhu cầu đối với sản phẩm hữu cơ. Các nhà máy chế biến hạt điều ở Ấn Độ hoạt động với lượng từ 550.000  đến 585.000 tấn hạt mỗi năm. Sản phẩm này được nhập khẩu rất xa từ các nước như Guinea Bissau, Indonesia và Madagascar. Không có khả năng để chế biến sản phẩm này như một sản phẩm chứng nhận hữu cơ (dù nó đã được mặc định hữu cơ). Vì nếu như vậy, các nhà chế biến hạt điều Ấn Độ phải chịu trách nhiệm cho việc chứng nhận cho người trồng điều ở Châu Phi.  Điều này phải xử lý thông qua chuỗi cung ứng, và người cung ứng có thể thay đổi khách hàng bất cứ lúc nào, bất kể việc đầu tư của người mua trong việc cấp chứng nhận và nhãn hiệu.

 

- Không có bộ phận chứng nhận nội địa, sản xuất hữu cơ là một quá trình tốn kém.

 

- Các nhà chế biến Ấn Độ đã gặp khó khăn trong việc đầu tư trong quá khứ, hiện tại họ phải đương đầu với chi phí lao động tăng cao, và có thể bắt buộc phải đầu tư nhiều kỹ thuật trong các nhà máy của họ. Kết quả, họ gặp khó khăn trong việc đầu tư sản xuất điều hữu cơ.

 

- Qua đánh giá sản xuất điều hữu cơ của Ấn Độ cho thấy có 4 nhà sản xuất là Achal Industries, Krishnan  Cashew,  Ajanta,  và  Zantye  Cashew.  Aachal  sản xuất 100 tấn mỗi năm và gắn với các nhà nhập khẩu Châu Âu để cung cấp sản phẩm. Zyntye cũng gắn với một nhà nhập khẩu khác. Còn công ty Ajanta Cashew bán sản phẩm điều hữu cơ.

 

Việt Nam

 

Một báo cáo được trích dẫn từ ITC nêu lên: “Theo IFOAM và FiBL (2006), ở Việt Nam. có 6.475 ha đất trồng điều hữu cơ. Hiện nay có 1.022 nông trại đăng ký sản xuất hữu cơ ở Việt Nam. Ở Việt Nam, sử dụng phân bón hóa học với mục tiêu đảm bảo an ninh lương thực. Nông nghiệp hữu cơ rất giới hạn trong nước, và không có chương trình chính thức của chính phủ nhằm đẩy mạnh bộ phận này. Nông nghiệp hữu cơ chỉ là một giai đoạn khởi đầu, và nỗ lực cho việc đơn giản hóa chứng nhận hữu cơ trong nước chỉ mới bắt đầu. Sản phẩm hữu cơ chủ yếu là lúa, trà, bắp, rau và tôm. Chưa có dấu hiệu mạnh về thị trường nội địa cho các sản phẩm hữu cơ và sản xuất chủ yếu cho xuất khẩu.”

 

Một nhà  môi giới độc lập và có trách nhiệm cho việc xuất khẩu điều với VINACAS, là hiệp hội chế biến điều của Việt Nam, không có sản phẩm điều hữu cơ sẵn có trên thị trường và không có bộ phận chứng nhận sản xuất hữu cơ.

 

Có một vài dự án ở Việt Nam sản xuất điều hữu cơ với lượng nhỏ. Các nhà thương mại hữu cơ của Châu Âu đang hoạt động tìm kiếm nguồn hữu cơ ở Việt Nam. Sản phẩm được chứng nhận đầy đủ và nhà máy phải có chứng chỉ  HACCP. Công ty Jorn  van  den  Dop, ở Amsterdam, thực hiện dự án ở Việt Nam nhưng quan tâm về việc cung ứng bổ sung. Một số công ty Mỹ cũng tìm kiếm thị trường điều hữu cơ ở Việt Nam, nhưng cũng với lượng nhỏ, chất lượng tốt. 

 

Tây Phi

 

Đầu tư phát triển ở Tanzania là khả thi về sản xuất điều hữu cơ. Công ty Olam International và công ty Premier Cashew đang xây dựng nhà máy có khả năng sản xuất và chế biến điều hữu cơ. Trong năm 2008, Olam đã xây dựng các thương hiệu WW320 và LWP, với chứng nhận hữu cơ, bán với giá 35% và 70% cao hơn so với điều thông thường. Olam được xem là một công ty tin cậy trong công nghệ chế biến điều hữu cơ. Công ty Premier Cashew có công xuất chế biến khoảng 6.000 tấn điều. Nó được thiết lập với sự hỗ trợ của EPOPA (Export Project for Organic Products from Africa). Song, chưa rõ tỷ lệ sản phẩm hữu cơ được chứng nhận là bao nhiêu.  Chưa có điều hữu cơ xuất khẩu từ Mozambique. Chương trình Phát triển Điều Châu Phi (Africa Cashew Development), là một đầu tư từ Hà Lan, đang tiến hành dự án phát triển điều hữu cơ, nhưng chỉ mới bắt đầu.

 

_________________________________________

Biên dịch từ: Prospects for Cambodia’s Cashew Sub-sector. IFC Advisory Services in East Asia and the Pacific. International Finace Corporation, World Bank and European Union, 10/2010.

Trở lại      In      Số lần xem: 2511

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Hơn 120 quốc gia ký kết Hiệp ước Paris về biến đổi khí hậu
  • Một số giống đậu tương mới và mô hình chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất lúa tại Đông Nam Bộ và Đồng Bằng Sông Cửu Long
  • Các nước cam kết chống biến đổi khí hậu
  • 12 giống hoa được công nhận bản quyền
  • Thảo luận việc quản lý nước theo cơ chế thị trường
  • Lượng nước ngầm trên Trái đất đạt 23 triệu kilômét khối
  • Sản xuất hồ tiêu thế giới: Hiện trạng và Triển vọng
  • Triển vọng tích cực cho nguồn cung ngũ cốc toàn cầu năm 2016
  • Cây trồng biến đổi gen với hai tỷ ha (1996-2015); nông dân hưởng lợi >150 tỷ usd trong 20 năm qua
  • Cơ hội cho gạo Việt
  • Việt Nam sẽ áp dụng cam kết TPP cho thêm 40 nước
  • El Nino có thể chấm dứt vào cuối tháng 6
  • Chi phí-hiệu quả của các chương trình bệnh động vật "không rõ ràng"
  • Xuất khẩu hồ tiêu: Gậy ông đập lưng ông
  • Đất có thể đóng vai trò quan trọng trong việc giảm lượng khí nhà kính
  • Quản lý và phát triển thương hiệu gạo Việt Nam
  • Những cách nổi bật để giải quyết những thách thức về hệ thống lương thực toàn cầu
  • Lập bản đồ các hộ nông dân trồng trọt trên toàn thế giới
  • Hỗ trợ chuyển đổi từ trồng lúa sang trồng ngô
  • Nếu không được kiểm soát, cỏ dại sẽ gây thiệt hại kinh tế tới hàng tỷ USD mỗi năm
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD