Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  15
 Số lượt truy cập :  33246752
Tuần tin khoa học 519 (27/02-05/03/2017)
Thứ bảy, 25-02-2017 | 01:53:30

Điều tiết theo kiểu DOWN của gen BnDA1 cải tiến được khối lượng hạt và kích thước hạt của cây cải dầu

Cây cải dầu, tiếng Anh là Oilseed rape, tên khoa học là Brassica napus L., là một loài cây trồng cho dầu rất quan trọng, đồng thời nó còn là cây cho nguyên liệu để chế biến thành năng lượng sinh học (biofuel). Khối lượng hạt và kích cỡ hạt là yếu tố đóng góp đáng kể đến năng suất cải dầu, ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất dầu. Gen DA1 được biết là gen điều tiết ngược với kích thước hạt và sự điều tiết theo kiểu DOWN của gen DA1 trong cây Arabidopsis (AtDA1) sẽ dẫn đến kết quả cho hạt to hơn cũng như kích cỡ lớn hơn. Jie-Li Wang và cộng sự thuộc Đại Học Jiangsu, Trung Quốc thực hiện nội dung “downregulate” gen BnDA1 trong cây cải B. napus bằng cách cho thể hiện mạnh mẽ gen AtDA1R358K, một dạng không có chức năng của gen DA1. Những cây transgenic thể hiện sự gia tăng đáng kể sinh khối và kích cỡ hạt, tử diệp, lá, hoa, và hàm lượng siliques. Hơn nữa, khối lượng 1000 hạt tăng 21,23%, năng suất hạt trên mỗi cây tăng 13,22% trong điều kiện thí nghiệm ngoài đồng. Sự chuyển nạp gen này không có ảnh hưởng bất lợi cho năng suất.  Kết quả minh chứng gen DA1 rất có triển vọng cải tiến tính trạng liên quan đến hạt trong cây cải dầu. xem Plant Biotechnology Journal.

 

Biểu hiện mạnh mẽ gen TaOEP16-2-5B của lúa mì làm tăng chính chống chịu nóng và khô hạn của cây Arabidopsis

Những stress phi sinh học ví dụ như nóng và khô hạn, là những nhân tố chính ảnh hưởng đến năng suất cây trồng. Trong nghiên cứu trước đó, Một gen đóng vai trò mã hóa “plastid outer envelope protein” của cây lúa mì (Triticum aestivum), gen TaOEP16-2, đã được xác định. Xinshan Zang và các nhà nghiên cứu trong nhóm thuộc ĐH Nông Nghiệp Trung Hoa thực hiện một nghiên cứu nhằm mục đích phân lập và định tính gen TaOEP16-2 này. Ba chuỗi trình tự DNA của gen TaOEP16-2 đã được xác định từ cây lúa mì lục bội (hexaploid), định vị trên nhiễm sắc thể 5A, 5B và 5D. Những phân tử đồng dạng ấy biểu hiện các thành phần hết sức khác nhau khi cho xử lý stress nhiệt. Gen TaOEP16-2-5B là gen trội, được chọn lọc để phục vụ nghững phân tích sâu hơn. Gen TaOEP16-2 được tìm thấy có trong phản ứng của cây đối với stress khô hạn. Gen TaOEP16-2-5B có cùng chức năng khi hạt nẩy mầm kiểm soát ABA giống như gen AtOEP16-2. So sánh với cây nguyên thủy (wild type), cây Arabidopsis transgenic  biểu hiện mạnh mẽ gen TaOEP16-2-5B đã tăng cường tính chống chịu stress nóng, được minh chứng bằng mức độ cây sống sót, tính bền vững và tính cứng của màng tế bào, hàm lượng sucrose tăng. Kết quả cho thấy gen TaOEP16-2-5B có thể được sử dụng trong chuyển gen cải tiến giống lúa mì và những giống cây trồng khác. Xem Plant Science.

 

Phát triển giống lúa đột biến có mục tiêu chọn lọc bằng hệ thống CRISPR-Cpf1

CRISPR-Cpf1 là hệ thống CRISPR-Cas mới được xác định, và Cpf1 vừa được người ta sử dụng như một công cụ phục vụ kỹ thuật chỉnh sửa genome của tế bào động vật có vú. Muốn trắc nghiệm mức độ thành công của CRISPR-Cpf1 người ta xem xét sự đột biến có mục tiêu trên cây lúa, Rongfang Xu và ctv. thuộc Anhui Academy of Agricultural Sciences, đã chọn ra hai mục tiêu cần phải cải tiến trong genome, đó là gen OsPDSOsBEL. Sau khi chuyển nạp, vùng trọng tâm của OsPDS được người ta xem xét, kết quả cho thấy tính chất đột biến có mục tiêu (targeted mutagenesis) có thể nói rằng đã thành công khi sử dụng hệ thống CRISPR-Cpf1. Phân tích một gen mục tiêu khác, OsBEL, kết quả khẳng định rằng các mutants đã được thực hiện rất hiệu quả khi chuyển nạp chúng vào sinh vật. Phân tích sâu hơn cho thấy rằng các phận tử pre-crRNAs có một trình tự lập lại trực tiếp đến toàn bộ chiều dài phân tử lớn hơn so với phân tử crRNAs đầy đủ. Kết quả còn cho thấy hệ thống mới CRISPR-Cpf1 có thể tạo ra kết quả rất hiệu nghiệm những đột biến đặc biệt, di truyền được trong cây lúa. Xem Plant Biotechnology Journal.

 

Hàm lượng dầu trong hạt đậu nành được cải bằng CRISPR-Cpf1

Một nhóm các nhà nghiên cứu của “Center for Genome Engineering”, thuộc “Institute for Basic Research” (IBS), Hàn Quốc đã thành công trong chỉnh sửa hai gen điều khiển hàm lượng dầu của hạt đậu nành thông qua công nghệ mới CRISPR-Cpf1. Công nghệ này là cải biên từ công nghệ “ene editing” với CRISPR-Cas9. Các nhà khoa học của IBS trước đó đã sử dụng Cpf1 để chỉnh sửa DNA của tế bào. Họ đưa vào “CRISPR-Cpf1 complex” các tế bào thực vật. Họ đã thiết kế CRISPR-Cpf1 để cắt hai gen FAD2 của đậu nành. Những gen ấy là một phần của chu trình chuyển hóa oleic acid thành linoleic acid có tính chất “polyunsaturated”. Bằng cách đột biến gen FAD2, phần trăm hàm lượng oleic acid trong hạt đậu nành tăng lên, làm cho dầu đầu nành này tốt hơn cho sức khỏe con người. Nhóm nghiên cứu của IBS còn tìm thấy ít nhất ba tiện ích khác của CRISPR-Cpf1 so với CRISPR-Cas9: kỹ thuật CRISPR-Cpf1 có phân tử CRISPR-RNA (crRNAs) ngắn hơn, cho nên RNA có thể được tổng hợp theo cách thức hóa học; CRISPR-Cpf1 tạo ra những đoạn cắt lớn hơn (7 base pairs) tại gen đích, mà gen này khá tốt để làm ra gen hoàn toàn không khởi động *(completely inoperative); cách thức cắt của Cpf1  có thể giúp cho việc chỉnh sửa gen tốt hơn rất nhiều. Xem IBS News Center.

 

Penicillin của nấm Penicillium chrysogenum không lệ thuộc nhiều vào số gen tổng hợp

Sự hợp nhất có tính chất đa gen (Multi-copy gene integration) vào trong bộ genoem của vi sinh vật là cách thức truyền thống để đạt được kết quả cải tiến sự thể hiện gen. Đối với vi nấm Penicillium chrysogenum, một “producer” từ nấm sản sinh ra thuốc kháng sinh penicillin, vi nấm này có rất nhiều chủng nòi (strains) mang nhiều bản sao chép (multiple copies) của quá trình sinh tổng hợp penicillin từ một chùm gen đích (gene cluster).

 

 Điều này dẫn đến hàm lượng penicillin rất cao từ kết quả của “multiple copies” của các gen penicillin. Sandra Ziemons thuộc “Ruhr-Universität Bochum” đã nghiên cứu P2niaD18, một chủng nòi nấm với hai bản sao của chùm gen “penicillin”. Họ đã nghiên cứu sự sản sinh, sự mất đoạn và sự biểu hiện mạnh mẽ của các chủng nòi từ P2niaD18 của nấm P. chrysogenum để xác định số bản sao chép trong sinh tổng hợp ra penicillin bởi “gene cluster”. Họ nghiên cứu sự thể hiện gen, và kết quả thu được penicillin. Có sự gia tăng penicillin mà không lệ thuộc vào số bản sao chép của chùm gen mã hóa ra penicillin Xem BMC Biotechnology.

 

THÔNG BÁO

 

Chương trình đào tạo của  ĐH Michigan về quyền sở hữu trí tuệ và thương mại hóa công nghệ

Michigan State University (MSU) World Technology Access Program (WorldTAP) thông báo chiêu sinh lớp đào tạo "Technology Transfer, Intellectual Property Management, Technology Commercialization, and Product Stewardship" được tiến hành vào ngày 20 tháng Tám đến ngày 1 tháng Chín, 2017 tại East Lansing, Michigan.

 

Xem WorldTAP website, hoặc liên hệ với Dr. Jane Payumo  payumoja@msu.edu.

 

Khóa học “Kỹ Thuật Chọn Giống Mới”  về cây bắp

IPBO (Institute of Plant Biotechnology Outreach) hợp tác với VIB-UGent Center for Plant Systems Biology, được sự hỗ trợ của VLIR-UOS chiêu sinh khóa đào tạo có tên là "Modern Breeding Techniques of Maize." Khóa đào tạo sẽ tiến hành từ ngày 21 tháng Tám đến ngày 8 tháng Chín, 2017 tại Gent, Belgium. Xem course website, hoặc liên hệ sylvie.debuck@vib-ugent.be.

 

Đại hội lần thứ Tư về Genomics và Chỉnh Sửa lỗi genome – Châu Á

4th Plant Genomics and Gene Editing Congress : Asia, được tổ chức tại Hồng Kông từ ngày 10 đến 11 tháng TƯ năm 2017. Xem http://www.global-engage.com/event/plant-genomics-asia/

Trở lại      In      Số lần xem: 1214

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD