Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  28
 Số lượt truy cập :  33262925
Tuần tin khoa học 536 (03-09/07/2017)
Thứ bảy, 01-07-2017 | 06:19:49

Làm thế nào cải thiện sự cố định đạm trong cây họ Đậu

Các nhà khoa học thuộc Đại Học Kentucky, đứng đầu là Giáo Sư Hongyan Zhu đã tìm thấy  cách thức tốt hơn để cây họ Đậu cố dịnh đạm. Zhu và nhóm nghiên cứu của ông tìm ra hai peptides có tính chất kháng vi sinh (antimicrobial peptides) trong cây cỏ ba lá (tên khoa học: Medicago truncatula). Chất kháng vi sinh này có thể giết chết vi khuẩn vùng rễ (rhizobial bacteria) mà chúng là khởi thủy của sự kiện cố định đạm. Cây cỏ M. truncatula có quan hệ di truyền rất gần với cỏ “alfalfa”, một loài cỏ làm thức ăn gia súc. Zhu tin chắc rằng những protein có tính chất kháng vi sinh vật như vậy có chức năng đầu tiên là diệt vi khuẩn khi chúng xâm nhập vào cây, nhưng đã và đang được tiến hóa để sử dụng bất cứ vi khuẩn nào đó nhằm khởi động tiến trình cố định đạm của cây. Vi khuẩn không chống chịu được những peptides ấy sẽ chết gần hết. "Phát hiện quan trọng này giúp cho các nhà khoa học hoạch định chiến lược cải tiến sự cố định đạm của cây họ Đậu thông qua việc thanh lọc hoặc thao tác kỹ thuật cần thiết những gen ấy để cây có nhiều hơn vi khuẩn có lợi. Đây là tiềm năng giúp chúng ta tạo cho cây học Đậu cố định đạm hiệu quả hơn," Zhu đã nói. Xem University of Kentucky Research News.

 

Hiệp Hội đậu nành Hoa Kỳ: Cần thiết phải có giống cây trồng biotech để nuôi  9,7 tỷ người vào năm 2050

Công nghệ sinh học là công cụ rất cần thiết cho nông dân để học sản xuất đủ lương thực, thực phẩm, đáp ứng nhu cầu của 9,7 tỷ người trên thế giới vào năm 2050, theo Hiệp Hội Đậu Nành Hoa Kỳ (ASA: American Soybean Association) trong kiến nghị của họ đối với Bộ Nông Nghiệp Hoa Kỳ (USDA) và FDA (U.S. Food and Drug Administration) khi xem xét các đạo luật về công nghệ di truyền.

 

Hiệp Hội Đậu Nành bày tỏ chính kiến liên quan đến nhiều khía cạnh luật pháp sẽ gia tăng áp lực và kềm chế sự nghiên cứu cũng như sự cách tân trong ngành chọn giống, nhưng ASA hoan nghênh những nỗ lực của Bộ Nông Nghiệp Mỹ (USDA) trong nội dung làm thế nào giảm áp lực các văn kiện pháp lý đang tồn tại. ASA đề nghị FDA đồng thuận với khuyến nghị của USDA để không loại trừ các kỹ thuật chỉnh sửa bộ genome (genome editing) ra khỏi các chấp thuận cần có trước khi ra thị trường, bởi vì nó ít rủi ro hơn và có thể gần với tự nhiên hơn hoặc mang lại thành công hơn cho chọn tạo giống cây trồng truyền thống. Những kiến nghị của ASA đến USDA và FDA có thể được tìm thấy trên website.

 

Giống bông vải có gen mã hóa kinesin – “gen GhKIS13A1

Sợi bông có kiểu hình rất khác biệt từ tế bào đơn của lớp biểu bì noãn bào (single cell of ovule epidermis). Một số gen có trong sự hình thành sợi bông, tuy nhiên, chỉ có một vài gen điều khiển sợi bông đã và đang được người ta nghiên cứu. Họ phụ “Kinesin 13” được người ta tìm thấy có chức năng trong quá trình phân bào và kéo dài tế bào, nó được người ta tin rằng có trong sự điều tiết khi cây bông phát triển sợi. Yan-Jun Li và Shou-Hong Zhu thuộc Đại Học Shihezi, Trung Quốc đã tiến hành dòng hóa (cloned) và nghiên cứu gen GhKIS13A1, một thành viên của họ phụ “Kinesin 13”. Kết quả phân tích cho thấy gen GhKIS13A1 duy trì mức thể hiện thấp  khi bông phát triển sợi. Xét nghiệm sinh học còn cho thấy protein GhKIS13A1 có “microtubule” gắn với  hoạt động của enzyme ATPase căn bản, mà chúng có thể bị kích hoạt rất đáng kể bởi có sự xuất hiện của microtubules như vậy. Sự thể hiện mạnh mẽ gen GhKIS13A1 trong cây mô hình Arabidopsis  đã làm giảm những “trichomes” trong lá [lông tơ cực mịn trên biểu bì lá] và giảm phần trăm “nhánh trichomes 3”, làm tăng “nhánh trichomes 2” và những trichomes nhăn nhúm. Hơn nữa, khi thể hiện đột biến Kinesin-13a-1 trong cây Arabidopsis, gen GhKIS13A1 đã cứu sống nhánh trichome có khuyết điểm, làm nó trở lại bình thường. Kết quả cho thấy gen GhKIS13A1 điều tiết số lượng và thành phần phân nhánh của những trichomes trên lá. Sự giống nhau giữa sợi bông và lông tơ trên lá của Arabidopsis (trichomes), người ta tin rằng gen GhKIS13A1 có thể có trong sự điều tiết của bông vải trong giai đoạn phát triển sợi bông. Xem BMC Biotechnology.

 

Sự thể hiện mạnh mẽ gen DDF1 của cây Blueberry liên quan đến tính trạng chống chịu lạnh

Gen CBF/DREB 1 làm gia tăng tính chống chịu giá lạnh (freezing tolerance) của cây cho gỗ nhưng nó liên kết với tính trạng lùn và tính trạng trổ hoa trễ. Những thay đổi tương tự cũng được người ta quan sát trên gen DWARF AND DELAYED FLOWERING 1 (DDF1) của cây Arabidopsis. Tuy nhiên, các tương đồng (orthologs) của gen DDF1 chưa được nghiên cứu trên cây thân gỗ (woody plants). Các nhà khoa học thuộc ĐH Michigan State  là Guo-qing Song và ctv. đã tiến hành một nghiên cứu về sự thể hiện gen DDF1, còn được biết là VcDDF1 của cây “blueberry” (tên khoa học là Vaccinium corymbosum). Gen VcDDF1 thể hiện mạnh mẽ là kết quả của tính chống chịu lạnh giá được tăng cường của cây “blueberry” tứ bội và không cho ra những thay đổi đáng kể nào về kích thước cây và thời gian trổ hoa. Phân tích cho thấy các gen biểu hiện rất khác nhau (DE: differentially expressed) theo những chu trình phản ứng với lạnh giá, sự trổ hoa, protein “DELLA”, và những phytohormones thực vật giữa hai giống cây “blueberry” chuyển gen và không chuyển gen.  Tính chống chịu giá lạnh được tăng cường đồng nghĩa với sự thể hiện các gen điều tiết phản ứng với lạnh và gen trong chu trình sản sinh ra “ethylene”. Chiều cao cây không thay đổi, tính ngủ nghỉ (dormancy) của hạt và tính trạng trổ bông không thay đổi là do ảnh hưởng tối thiểu của gen VcDDF1-OX khi nó biểu hiện protein DELLA, các gen trong chu trình trổ hoa, và những gen khác trong chu trình sản sinh ra các “phytohormone”.  Các gen biểu hiện ra khác nhau như vậy trong chu trình sản sinh ra auxin và cytokinin cho thấy cây tahy đổi tính chống chịu đối với khô hạn và mặn. Sự biểu hiện mạnh mẽ của gen VcDDF1 hoặc những orthologues (gen đồng dạng) của nó có thể được xem là phương pháp tiếp cận mới để gia tăng tính chống chịu giá rét  của loài thực vật thân gỗ. Xem BMC Plant Biology.

 

Chỉnh sửa genome tại nhiều điểm của giống bông vải bằng hệ thống CRISPR-Cas9

Bông vải (Gossypium hirsutum) là loài thực vật có bộ nhiễm sắc thể thuộc “allotetraploid” [tứ bội nguyên] với bộ genome cực kỳ phức tạp, hầu hết các gen đều có nhiều bản sao chép (multiple copies). Do ưu điểm hiệu quả cao, hệ thống CRISPR-Cas9 được người ta áp dụng để chỉnh sửa bộ genome cây bông vải. Đứng đầu công trình nghiên cứu này là Pengcheng Wang thuộc Đại Học Nông Nghiệp Huazhong đã tạo ra hai phân tử sgRNAs trong một vector đơn và thực hiện kỹ thuật chỉnh sửa genome tại nhiều điểm (multiple-site genome editing) trên cây bông vải. Họ xác định gen đích ngoại lai để chuyển nạp, gen Discosoma red fluorescent protein2 (DsRed2) trong cây bông thể hiện mạnh mẽ gen DsRed2, cây này có kiểu hình hạt bông màu đỏ. Trong khi đó, gen nội sinh GhCLA1, có chức năng phát triển lục lạp (chloroplast development), cũng được lựa chọn làm đích cho CRISPR-Cas9. Thế hệ T0 của cây được chỉnh sửa DsRed2 có tính trạng nông học giống như cây nguyên thủy (wild types), không có huỳnh quang màu đỏ trong hạt bông. Tính trạng này được truyền sang thế hệ T1 của nó. Đối với gen nội sinh GhCLA1, 75% cây tái sinh có kiểu hình bạch tạng (albino) với những nucleotides bị mất rất rõ và DNA bị mất đoạn. Hiệu quả của kỹ thuật chỉnh sửa gene tại điểm đích biến thiên từ 66,7 cho đến 100%. Hơn nữa, không có đột biến ngoài mong muốn xảy ra.  Kết quả chứng minh rằng hệ thống CRISPR-Cas9 là cách tiếp cận đáng tin cậy cho loài bông vải thuộc bộ nhiễm sắc thể “allotetraploid” [tứ bội nguyên] để chỉnh sửa genome. Xem Plant Biotechnology Journal.

Trở lại      In      Số lần xem: 764

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD