Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  12
 Số lượt truy cập :  33250601
Tuần tin khoa học 623 (25/02-03/03/2019)
Thứ bảy, 23-02-2019 | 07:13:34

Sự thể hiện gen OsFTL10 làm cây lúa trổ bông sớm và cải tiến tính chống chịu khô hạn

 

Các nhà khoa học Trung Quốc đã xác định gen OsFTL10 trong hệ gen cây lúa. Khi nó thể hiện mạnh mẽ, nó có thể dẫn đến kết quả làm cây lúa trổ bông sớm hớn hai tuần so với đối chứng. Trong báo cáo khoa học được công bố trên tạp chí Journal of Life and Environmental Sciences, các nhà khoa học Trung Quốc đã đã nghiên cứu vai trò của gen OsFTL10 và chức năng của gen trong điều khiển sự trổ bông và stress phi sinh học. Gen OsFTL được viết tắt từ chữ Flowering Locus T-Like genes trong cây lúa. Gen kiểm soát tính trạng trổ bông, tính trạng rất quan trọng cho cây phát dục. Trong trường hợp OsFTL10, họ thấy rằng sự thể hiện mạnh mẽ gen này không chỉ kích thích trổ bông sớm mà còn cải tiến được tính trạng chống chịu khô hạn của cây lúa transgenic thông qua phản ứng kích hoạt cơ chế chống chịu khô hạn. Nghiên cứu sâu hơn về vùng định vị chính xác của locus này - OsFTL10 được các nhà khoa học khuyến cáo nhằm xác định liên kết trực tiếp giữa tính trạng trổ bông và tính trạng chống chịu khô hạn trong cây lúa. Xem chi tiết PeerJ.

 

Hình: Sự biểu hiện theo thời gian và không gian của gen OsFTL10 trong cây lúa. (A) Biểu hiện gen OsFTL10 trong mô lúa theo kết quả phân tích qRT-PCR. (B) Xét nghiệm GUS đối với hoạt động của protein “OsFTL10 promoter” trong lá non. (C) Lá già. (D) Bông. (E, F) Gié non. (G) Bao phấn. (H) Cây mạ non (với đỉnh lá khuếch đại).

 

Đồng thể hiện các gen của đậu nành điều khiển hàm lượng folate trong cây bắp và cây lúa mì

 

Folate là một dạng của vitamin B thiết yếu để sản sinh ra tế bào hồng huyết cầu và bạch huyết cầu trong tủy xương, chuyển hóa carbohydrates thành năng lượng, và nhiều chức năng khác. Sự hấp thu thấp folate trong cơ thể người có thể dẫn đến nhiều bệnh nghiêm trọng. Muốn cải tiến tình trạng folate trong cơ thể người, người ta khuyến cáo cần tăng cường folate trong cây trồng làm lương thực, thực phẩm cho người, điều này có thể thành công thông qua công nghệ biến dưỡng. Các nhà khoa học Trung Quốc thuộc Chinese Academy of Agricultural Sciences đã tiến hành dòng hóa thành công hai gen GmGCHI (GTP cyclohydrolase I) (Gm8gGCHI và Gm3gGCHI) và gen  GmADCS (aminodeoxy chorismate synthase) của cây đậu nành, chúng có nhiệm vụ sinh tổng hợp những tiền chất của folate pterin và p-aminobenzoate, theo thứ tự. Họ đã trắc nghiệmnhững chức năng của các gen nói trên đầu tiên trong cây mô hình Arabidopsis biến đổi gen. Họ thấy rằng Gm8gGCHI đã làm tăng pterin và sản sinh folate nhiều hơn Gm3gGCHI. Sau đó, họ cho đồng thể  hiện Gm8gGCHI và GmADCS trong cây bắp và cây lúa mì với hàm lượng folate tăng lên đáng kể. Kết quả cho thấy có sự gia tăng có ý nghĩa hàm lượng folate trong hạt bắp và hạt lúa mì transgenic, khẳng định rằng chiến lược cho đồng thể hiện hai gen nàycó thể được áp dụng để gia tăng hàm lượng folate đối với hai loài cây lương thực quan trọng này. Xem Journal of Experimental Botany.

 

Những đột biến CRISPR-Cas9 của một gen cây lúa làm thay đổi sinh tổng hợp tinh bột của nội nhũ

 

Các nhà khoa học thuộc University of Lleida-Agrotecnio Center và những đối tác đã tiến hành công trình nghiên cứu nhằm mục đích thay đổi guồng máy sinh tổng hợp tinh bột của cây lúa thông qua chỉnh sửa hệ gen bằng hệ thống CRISPR-Cas9 để tạo ra đột biến ảnh hưởng đến locus Waxy (Wx) mã hóa GBSSI (granule-bound starch synthase I) trong nội nhũ cây lúa. Những đột biến gen trong chu trình tổng hợptinh bột có một tác động đáng kể đối với phẩm chất và số lượng tinh bột. Những đột biến do CRISPR-Cas9 làm giảm GBBSI, nhưng không hề loại trừ hoạt động của GBSS trong hạt thóc. Người ta ghi nhận rằng hoạt động của GBSS trong các dòng lúa đột biến là 61–71% so với mức độ của dòng lúa nguyên thủy (chưa chỉnh sửa gen), giống với hai dòng đột biến phóng xạ, nhưng hàm lượng amylose giảm còn 8–12% trong hạt lúa dị hợp tửvà giảm còn 5% trong hạt lúa đồng hợp tử. Tổ chức tế bào không bình thường này trong tầng aleurone của hạt và cầu trúc hạt tinh bột cũng không bình thường đã được quan sát. Sự thể hiện của những gen khác có trong sinh tổng hợp tinh bột xảy ra trong hạt thóc và lá lúa, diều này làm thay đổi hoạt động của enzyme AGPase và sucrose synthase. Chúng giải thích activity những cơ chế có liên quan đến tinh bột và hàm lượng được hòa tan. Xem Plant Cell Reports.

 

Chỉnh sửa hệ gen không có “transgene” trong cà chua và khoai tây bằng CRISPR-CAS9 với base là cytidine đóng vai trò “editor”

 

Các nhà khoa học hiện đang sử dụng hệ thống chỉnh sửa hệ gen như một công cụ hữu hiệu để khai thác chức năng của gen nào đó,  rồi phát triển ra giống cây trồng mới với tính trạng mục tiêu được cải tiến theo ý muốn. Một trong những thách thức của công nghệ chỉnh sửa gen này là đột biến chính xác và đột biến điểm đúng base đích trong cải tiến giống cây trồng. Do đó, những công cụ bổ sung mới đã và đang được phát triển, ví dụ như CBEs (cytidine base editors), mà CRISPR-Cas9 làm nền để sáng tạo ra  sự chuyển đổi base một cách trực tiếp: từ cytidine thành thymine. Trong thực vật hai lá mầm, sự hợp nhất ổn định nhất của hệ gen theo hệ thống CRISPR-Cas9 đều sử dụng chuyển nạp gián tiếp qua vi khuẩn Agrobacterium. Tuy nhiên, việc loại trừ phân tử DNA ngoại lai có thể rất khó đạt đến thành công, đặc biệt là cây nhân giống vô tính. Florian Veillet và đồng ngiệp thuộc Institut National de la Recherche Agronomique, Pháp đã tiến hành xác định đích dến của gen ALS (acetolactate synthase) trong hệ gen cây cà chua và khoai tây thông qua chuyển nạp CBE với vi khuẩn Agrobacterium. Họ đã chỉnh sửa thành công các base mang gốc cytidine tại vị trí đích, điều này dẫn đến kết quả cây kháng được chlorsulfuron với hiệu quả chỉnh sửa base chính xác trên 71% trong cà chua. Họ còn sản sinh ra 12.9% cây cà chua chỉnh sửa gen và và 10% cây khoai tây chỉnh sửa (transgene-free). Phương pháp tiếp cận ấy làm giảm đáng kể những ảnh hưởng không mong muốn do sự hợp nhất vào hệ gen của những transgene ngẫu nhiên nào đó vào hệ gen của cây chủ. Xem International Journal of Molecular Sciences.

 

Nghiên cứu di truyền biểu sinh (epigenetics) giúp cây trồng chịu đựng tốt hơn

 

Nhà sinh học Steve Jacobsen (hình) thuộc University of California, Los Angeles (UCLA) đang thực hiện một công trình nghiên cứu có tiềm năng tác động cải tiến giống cây trồng. Jacobsen chuyên về lĩnh vực di truyền biểu sinh, và là một thành viên sáng lập công ty Inari, công ty có bản quyền giống cây trồng tại UCLA.  Công việc của Jacobsen tập trung vào những chu trình xảy ra trong epigenetics của cây, và những công cụ ấy cho phép những thay đổi vô cùng chính xácvề thể hiện gen thông qua mô hình của di truyền biểu sinh. Một trong những nghiên cứu của ông tập trung vào những protein khác nữa trong cây Arabidopsis. Làm thế nào người ta có thể sử dụng hiện tượng methyl hóa của một phân tử DNA đích. Nhóm nghiên cứu giải thích khá chi tiết và chính xác những chu trình sinh học đặc biệt. Thỏa thuận giữa Jacobsen với Inari là cung cấp cho công ty phương pháp mới để cải tiến đặc tính của cây thông qua khai thác sự đa dạng di truyền, tiếp cận với công nghệ làm ảnh hưởng đến các gen thực vật mà không làm thay đổi mật mã di truyền của nó. Xem UCLA Newsroom.

 

THÔNG BÁO

 

GLOBAL CONGRESS ON BIOTECHNOLOGY

 

Đại Hội toàn thế giới về công nghệ sinh học diễn ra vào ngày 28-2 đến 2-3 năm  2019, tại Berlin, CHLB Đức. Xem conference website.

 

Trở lại      In      Số lần xem: 683

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD