Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  21
 Số lượt truy cập :  33255855
Những chính sách mới trong khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo của Nga

Liên bang Nga đã có nền tảng lâu đời về KH&CN nhưng cần khai thác tốt hơn nữa để đa dạng hóa nền kinh tế và giảm bớt sự phụ thuộc vào nguồn tài nguyên thiên nhiên. Sắc lệnh của Tổng thống năm 2012 đặt mục tiêu lớn cho chính sách khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (KHCN&ĐM) của Nga, bao gồm tăng tỷ lệ đầu tư cho nghiên cứu và phát triển trên GDP (GERD) lên 1,77% GDP.

Liên bang Nga đã có nền tảng lâu đời về KH&CN nhưng cần khai thác tốt hơn nữa để đa dạng hóa nền kinh tế và giảm bớt sự phụ thuộc vào nguồn tài nguyên thiên nhiên. Sắc lệnh của Tổng thống năm 2012 đặt mục tiêu lớn cho chính sách khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (KHCN&ĐM) của Nga, bao gồm tăng tỷ lệ đầu tư cho nghiên cứu và phát triển trên GDP (GERD) lên 1,77% GDP.

 

Chính sách quản trị KHCN&ĐM: Hội đồng Tổng thống về Khoa học và Giáo dục và Hội đồng Tổng thống về Hiện đại hóa Kinh tế và Đổi mới sáng tạo được thành lập để cải thiện chính sách phối hợp về khoa học và đổi mới. Hai chương trình, Phát triển KH&CN (DST) (2013 - 2020) và Phát triển kinh tế và Kinh tế sáng tạo (2013 - 2020), đã được phê duyệt vào năm 2013, tổ chức và phối hợp hệ thống tất cả các sáng kiến quan trọng về vốn ngân sách liên bang trong khoa học và đổi mới. Trong khuôn khổ của tình báo chiến lược chính sách, nghiên cứu tầm nhìn xa, ví dụ như trong khuôn khổ của Ủy ban liên ngành về công nghệ tầm nhìn xa, đang ngày càng được sử dụng trong việc lựa chọn và ưu tiên ngành KHCN&ĐM. Tầm nhìn dài hạn NC&PT hướng tới năm 2030, trong đó xác định các khu vực KH&CN đầy hứa hẹn, là một cơ sở quan trọng để lập kế hoạch chiến lược và hoạch định chính sách trong khu vực.


Cơ sở hạ tầng CNTT liên mạng: Cơ sở hạ tầng CNTT của Nga tương đối yếu, với 14,5 thuê bao các mạng băng thông rộng cố định trên 100 dân. Cơ sở hạ tầng nghiên cứu công dự kiến được cải thiện thông qua một số sáng kiến, bao gồm chương trình dự án cơ sở hạ tầng Mega-Science trong Chương trình Phát triển KH&CN (2013 - 2020) cho việc tạo ra và phát triển các cơ sở nghiên cứu lớn.


Cụm và chuyên môn hóa thông minh: Chính phủ phát động một chương trình toàn quốc mới trong năm 2012 để hỗ trợ thí điểm cụm sáng tạo, và 25 cụm đã được thành lập trong 6 lĩnh vực chiến lược: công nghệ hạt nhân và bức xạ; máy bay và không gian, sản xuất ôtô; đóng tàu; dược phẩm, công nghệ sinh học và các ngành công nghiệp y tế; vật liệu mới; hóa chất, hóa dầu; và CNTT và điện tử. Trong năm 2013, trợ cấp liên bang 67 triệu USD (1,3 tỷ RUB) được phân bổ để hỗ trợ các cụm thí điểm và lên đến 154 triệu USD (3,1 tỷ RUB) có hàng năm từ năm 2014 - 2016.


Toàn cầu hóa: Hợp tác quốc tế về đăng ký sáng chế của Nga gần với mức trung bình của OECD, khoa học Nga ít nhiều đã hội nhập với quốc tế. Một số rào cản hành chính cản trở hiệu quả hợp tác quốc tế KHCN&ĐM bao gồm các vấn đề ban hành thị thực và thủ tục tài trợ với các cơ quan nước ngoài và quốc tế. Trong năm 2013, Chính phủ đã công bố hai chương trình lớn mà KHCN&ĐM tài trợ bao gồm các quy định hỗ trợ cho hoạt động hợp tác quốc tế.


Chi cho KHCN&ĐM: Ngân sách nhà nước dành cho NC&PT (GBAORD) đã tăng lên đáng kể trong 5 năm qua. Kế hoạch ngân sách liên bang cho năm 2014 - 2015 giảm nhẹ trong phân bổ ngân sách cho NC&PT trong năm 2014. Tuy nhiên, nguồn ngân sách từ Chính phủ tài trợ vẫn là nguồn chính của GERD đến năm 2030, mặc dù các sáng kiến quan trọng gần đây để kích thích doanh nghiệp NC&PT và đổi mới đã được đưa ra. HERD được thiết lập để tăng từ 9% đến 13,5% GERD năm 2018, phản ánh mục tiêu của Chính phủ là tăng cường năng lực nghiên cứu của các trường đại học.

 
NASATI (Theo OECD
Trở lại      In      Số lần xem: 527

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD