Huân chương Ðộc lập
- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3
Huân chương Lao động
- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3
Giải thưởng Nhà nước
- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)
- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)
Giải thưởng VIFOTEC
- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)
- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)
- Giống Sắn KM 140 (2010)
![]() |
|
![]() |
|
Tác động của ngập úng ở giai đoạn sinh trưởng sớm đến năng suất và thành phần hạt đậu nành
Thứ tư, 12-03-2025 | 08:33:09
|
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Chengjun Wu1, Liliana Florez-Palacios1, Andrea Acuna1, Derrick Harrison1, Daniel Rogers1, John Carlin2, Leandro Mozzoni1, Henry T. Nguyen3, Grover Shannon3, Caio Canella Vieira3
1 Bộ môn Nông nghiệp, Khoa Khoa học Cây trồng, Đất và Môi trường, Đại học Arkansas, Fayetteville, Arkansas, Hoa Kỳ 2 Bộ môn Nông nghiệp, Chương trình Cải tiến Cây trồng Arkansas, Đại học Arkansas, Fayetteville, Arkansas, Hoa Kỳ 3 Khoa học & Công nghệ Cây trồng, Đại học Missouri, Columbia, Missouri, Hoa Kỳ
TÓM TẮT
Căng thẳng do ngập úng đang là mối đe dọa ngày càng tăng đối với sản lượng đậu nành toàn cầu [Glycine max (L.) Merr.] vì tần suất và cường độ của lượng mưa cực đoan đang gia tăng do biến đổi khí hậu. Đậu nành rất nhạy cảm với ngập úng và đã quan sát thấy tình trạng mất năng suất đáng kể do một loạt các phản ứng sinh lý tiêu cực do tình trạng thiếu oxy gây ra. Do đó, nhu cầu cấp thiết phải phát triển các kiểu gen chịu ngập úng. Nghiên cứu này đã đánh giá năng suất hạt và hàm lượng protein và dầu trong hạt của 31 kiểu gen đậu nành trong hơn 2 năm trong cả điều kiện ngập và không ngập, trong đó ngập lụt kéo theo tình trạng ngập nước một phần trong 4 ngày trong giai đoạn sinh trưởng sinh trưởng sớm R1/R2. Các mô hình tuyến tính hiệu ứng hỗn hợp đã được sử dụng để đánh giá tác động của điểm số thiệt hại do ngập (FDS, thang điểm 1 – 4) đối với các kiểu hình quan sát được, cũng như sự khác biệt trong các kiểu hình quan sát được giữa các kiểu gen chống chịu, trung bình và mẫn cảm trong các phương pháp xử lý ngập và không ngập. Không có tác động đáng kể nào của FDS đối với hàm lượng protein và dầu trong hạt. Ngoài ra, không có sự khác biệt đáng kể nào về các kiểu hình này được quan sát thấy giữa các phương pháp xử lý ngập và không ngập trên các kiểu gen khác nhau. Trung bình, đối với mỗi đơn vị tăng trong FDS, năng suất hạt giảm 432,7 kg/ha (17,4%). Các kiểu gen chống chịu bị mất năng suất khoảng 33% giữa các phương pháp xử lý ngập và không ngập, trong khi các kiểu gen vừa phải và mẫn cảm bị mất năng suất lần lượt là 44% và 51%. Những tiến bộ trong lĩnh vực hệ gen đang hứa hẹn cho việc xác định và kết hợp các alen chịu ngập mới thông qua lai tạo thực vật, có khả năng giảm thiểu tổn thất năng suất do ngập úng gây ra trong các điều kiện môi trường khác nhau. Tóm tắt bằng ngôn ngữ thông thường ngập úng là một vấn đề đáng kể trong sản xuất đậu nành vì nó ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển và năng suất của cây trồng. Nghiên cứu này đã điều tra 31 kiểu gen đậu nành trong hơn 2 năm trong điều kiện ngập và không ngập. Kết quả cho thấy ngập lụt làm giảm đáng kể năng suất đậu nành, với cây chống chịu mất khoảng 33% và cây mẫn cảm mất tới 51%. Điều thú vị là ngập úng không ảnh hưởng đến thành phần hạt bao gồm hàm lượng protein và dầu của hạt đậu nành. Các phát hiện cho thấy rằng việc lai tạo đậu nành chịu được ngập úng là rất quan trọng để đảm bảo tính bền vững của sản xuất đậu nành, đặc biệt là khi rủi ro lũ lụt ngày càng tăng liên quan đến biến đổi khí hậu.
Chi tiết xin xem tệp đính kèm! Võ Như Cầm theo Onlinelibrary.wiley.com |
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
![]() ![]() ![]() ![]() |
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
|