Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

 

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  21
 Số lượt truy cập :  36642199
Cây lúa có hiệu quả sử dụng nitơ tốt hơn
Thứ tư, 10-08-2016 | 07:32:32

Một nghiên cứu mới của của trường Đại học T Scarborough đã xác định các giống lúa "siêu sao" có thể giúp giảm tổn thất phân bón và giảm thiểu ô nhiễm môi trường trong quá trình sản xuất.

 

Nghiên cứu này do Giáo sư Herbert Kronzucker từ trường Đại học T Scarborough thực hiện với sự hợp tác của một nhóm nghiên cứu tại Học viện Khoa học Trung Quốc, đã xem xét 19 giống lúa để xem xét xem giống nào sử dụng nitơ hiệu quả hơn. Phần lớn cây trồng hấp thụ không hiệu quả nitơ - khi được sử dụng như một loại phân bón. Trong các ruộng lúa ở khu vực nhiệt đới, lượng thất thoát có thể lên tới 50-70%. Vấn đề là tác động tiêu cực của nitơ tới chất lượng nước thông qua việc chúng nhiễm vào các lưu vực sông gần đó hoặc ngấm vào nước ngầm. Nó cũng là một nguồn quan trọng của các khí như amoniac và nitơ oxit – những khí này không chỉ có hại cho sinh vật dưới nước mà còn là một nguồn quan trọng của phát thải khí nhà kính. Trong khi nitơ là một trong ba chất dinh dưỡng chính cần thiết cho cây trồng phát triển, nó cũng tốn nhiều nhất trong sản xuất, Kronzucker cho biết thêm. Nghiên cứu của Kronzucker lần đầu tiên xác định được một nhóm các chất do bộ rễ của cây lúa sản sinh ra và phát thải có ảnh hưởng trực tiếp đến sự trao đổi chất của vi khuẩn đất. Họ phát hiện ra rằng các phản ứng của vi sinh vật chủ chốt dẫn đến việc giữ nitơ kém hiệu quả có thể giảm đáng kể ở các giống lúa nhất định thông qua phản ứng của các chất cụ thể mà các tế bào gốc rễ phát thải ra.
 
Một trong những lý do chính mà cây trồng gây lãng phí quá nhiều phân bón là bởi chúng được nuôi dưỡng theo cách đó. Trong quá khứ, phân bón tương đối rẻ tiền để sản xuất vì nhiên liệu hóa thạch dồi dào và rẻ. Kết quả là, các nhà di truyền thực vật đã lai tạo ra giống cây trồng đáp ứng với sử dụng phân bón cao, bất kể chúng có hiệu quả sử dụng nitơ như thế nào. Hiện có hơn 120.000 giống lúa được lưu trữ tại ngân hàng tế bào mầm của Viện Nghiên cứu Lúa gạo quốc tế (IRRI) ở Phi-lip-pin, nhưng nhóm nghiên cứu của Kronzucker chỉ tập trung vào các giống đáp ứng các tiêu chí quan trọng. Họ tập trung vào giống lúa Japonica (gạo sử dụng làm món sushi) và Indica - loại lúa phổ biến nhất trên thế giới thường được trồng ở Trung Quốc, Ấn Độ và Đông Nam Á. Các giống này hiện tại cũng phải được nông dân trồng, tiềm năng cho năng suất cao, kháng sâu bệnh, tăng trưởng đến kích thước phù hợp và có bộ rễ đủ mạnh để chịu được gió mùa. Với kỳ vọng rằng nghiên cứu này có mục đích thông báo các chiến lược trồng lúa trên khắp châu Á. Một lựa chọn có thể là để cung cấp cho người nông dân các ưu đãi của chính phủ, chẳng hạn như: tín dụng thuế, để chuyển đổi sang một giống sử dụng nitơ thân thiện hơn.
 
N.T.H. - Mard, Theo Sciencedaily
Trở lại      In      Số lần xem: 2012

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Tuần tin khoa học 492 (15-21/08/2016)
  • Sử dụng cây che phủ để loại bỏ chất ô nhiễm khỏi đất canh tác
  • Hấp thu không khí, tạo ra năng lượng
  • Tác động của pH đến năng suất, sự phát triển rễ và hấp thụ dinh dưỡng của cây hồ tiêu (Piper nigrum L.)
  • Sâu bệnh hại ngô chịu ảnh hưởng của khí hậu
  • Phản ứng với stress mặn của lúa (Oryza sativa L.) với sự đa dạng ở giai đoạn lúa trổ đến thu hoạch
  • Ảnh hưởng của ba khoảng cách hàng trên các đặc tính nông học và năng suất của năm giống đậu nành [Glycine max (L.) MERR.] vụ xuân hè 2015 tại tỉnh Vĩnh Long
  • Các phân tử nhỏ giúp tạo ra ngũ cốc thông minh hơn
  • Đánh giá tính thích nghi và ổn định của các dòng/giống Lúa thơm triển vọng ở đồng bằng sông Cửu Long
  • Giải trình hệ gien của bệnh nấm có thể giúp ngăn chặn bệnh hại chuối
  • Một gen tương đồng của cây lúa đối với gen của cây arabidopsis “agd2-like defense1” đóng góp vào tính kháng bệnh đạo ôn do nấm Magnaporthe oryzae
  • Xử lý bùn thải sinh học bằng giun Quế tạo ra sản phẩm phân bón hữu cơ
  • Đồng phân LuxR ký gửi trên cây populus deltoides, kích hoạt sự thể hiện gen đáp ứng với tín hiệu thực vật hoặc những peptides đặc biệt
  • Khám phá thêm những bí mật về loài hoa hướng dương
  • Nghiên cứu sản xuất và sử dụng chế phẩm từ nấm Lecanicillium spp, để diệt rệp muội (Aphidae) gây hại cây trồng
  • Nghiên cứu thời gian sử dụng thuốc trừ sâu tốt nhất để kiểm soát bệnh vàng lá gân xanh
  • Thuốc bảo vệ thực vật bảo vệ cây trồng như thế nào?
  • Đồng hồ sinh học của nấm: Mục tiêu tiềm năng trong phòng chống bệnh thực vật
  • Đo thời gian lưu trú của nitơ trong đất có thể giúp ích cho nông nghiệp
  • Nghiên cứu ảnh hưởng của chế phẩm nấm rễ cộng sinh Arbuscular Mycorriza Fungi (AMF) đến sinh trưởng, phát triển cây đinh lăng tại Gia Lâm – Hà Nội
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD