Mục tiêu xuất khẩu nông sản 100 tỷ USD: Khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo trong kinh tế nông nghiệp - Còn khiêm tốn
Thứ tư, 26-03-2025 | 08:05:44
|
Ứng dụng khoa học công nghệ (KHCN), đổi mới sáng tạo đang là xu hướng chủ đạo, là chìa khóa thành công của các nước có nền nông nghiệp phát triển trên thế giới. Ở Việt Nam, theo ước tính, KHCN đóng góp trên 30% giá trị gia tăng của ngành nông nghiệp và 38% trong sản xuất giống cây trồng, vật nuôi.
KHCN đã góp phần nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa nông sản trên thị trường trong nước và quốc tế, góp phần đưa Việt Nam vào nhóm các nước xuất khẩu hàng đầu thế giới về gạo, cà phê, hồ tiêu, cao su, điều nhân...
Tuy nhiên, quy mô ứng dụng KHCN còn nhỏ lẻ; sản phẩm, sản lượng KHCN ứng dụng vào sản xuất nông nghiệp còn khiêm tốn, chưa tương xứng với yêu cầu phát triển nông nghiệp.
Nhỏ về quy mô, khiêm tốn về số lượng
Ở Việt Nam, kinh tế nông nghiệp đã có sự phát triển tích cực kể từ sau đổi mới (1986), góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người nông dân, ổn định kinh tế - xã hội và tạo nền tảng vững chắc để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, trình độ phát triển kinh tế nông nghiệp nước ta còn thấp; sản xuất manh mún, nhỏ lẻ, năng suất, chất lượng chưa cao, giá trị gia tăng thấp.
Mặc dù là nước nông nghiệp nhưng việc nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo trong kinh tế nông nghiệp ở nước ta còn nhiều khiêm tốn.
Việc chuyển giao, ứng dụng thành tựu KHCN, đổi mới sáng tạo vào sản xuất nông nghiệp (SXNN) ở nước ta thời gian qua vẫn còn ở quy mô nhỏ, chủ yếu là quy mô hộ gia đình và các trang trại sử dụng ít lao động. Số doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng KHCN hiện đại vào sản xuất, nhất là ứng dụng công nghệ cao, chưa nhiều. Tính đến tháng 6/2021, mới có 49 doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận ứng dụng KHCN còn hiệu lực; có 12 vùng và 11 khu nông, lâm nghiệp ứng dụng công nghệ được Chính phủ và các địa phương công nhận.
Đây là rào cản không nhỏ trong phát triển nền nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn trên cơ sở ứng dụng KHCN hiện đại. Do vậy, sản phẩm làm ra còn ít về số lượng và thiếu đồng nhất về chất lượng khiến khả năng cạnh tranh thấp, khó tiếp cận thị trường khó tính. Thậm chí, ngay cả với những đơn vị, mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao ở một số địa phương thì quy mô của hoạt động nghiên cứu, ứng dụng vẫn còn khiêm tốn, chưa đủ lớn mạnh để làm đầu tàu thúc đẩy phát triển hoạt động nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng KHCN rộng rãi vào SXNN ở các địa bàn lân cận trong mỗi vùng.
Về vấn đề này, ông Nguyễn Ngọc Sơn, Uỷ viên Thường trực Uỷ ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, cho biết, thực tế cho thấy, bên cạnh các kết quả tích cực thì phải thẳng thắn nhìn nhận là ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp ở nước ta còn khiêm tốn. Theo số liệu của Cục Chuyển đổi số (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) thì toàn quốc mới có 68 doanh nghiệp trên hàng nghìn doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp được công nhận là doanh nghiệp nông nghiệp công nghệ cao.
Con số đó cho thấy, việc ứng dụng công nghệ cao còn nhiều “rào cản” do đòi hỏi nguồn vốn đầu tư lớn, thiếu công cụ phòng ngừa, thiếu cơ chế thử nghiệm, đầu tư mạo hiểm, còn khoảng trống trong hệ thống pháp luật về thúc đẩy phát triển công nghệ cao, thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao, thiếu kiến thức ứng dụng công nghệ cao, nhận thức, tư duy sản xuất ở một số nơi còn lạc hậu, tỷ lệ cơ giới hóa ở một số khâu sản xuất và lĩnh vực ngành hàng (lâm nghiệp, khai thác thủy sản) còn thấp, quy mô sản xuất theo chuỗi giá trị còn phân tán.
Ở khía cạnh khác, tuy số lượng sản phẩm KHCN phục vụ nông nghiệp được nghiên cứu đã tăng lên (giai đoạn 2011 - 2020), Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã công nhận 529 giống mới, 273 tiến bộ kỹ thuật, 185 sáng chế, 440 quy trình kỹ thuật…, song số lượng thực tế được chuyển giao, ứng dụng vào SXNN một cách phổ biến, rộng rãi còn ít, đặc biệt trong khâu cơ giới hóa, bảo quản nông phẩm. Theo Trung tâm Khuyến nông quốc gia, trong giai đoạn 2016 – 2020, chỉ có 8 dự án cơ giới hóa, bảo quản chế biến nông phẩm được triển khai ở cấp bộ, gồm: 6 dự án mạ khay, máy cấy, máy sạ khóm; 1 dự án tưới tiết kiệm nước cho cây hồ tiêu và 1 dự án bảo quản, chế biến dược liệu. Đây là một con số quá khiêm tốn đối với một quốc gia có tham vọng phấn đấu trở thành cường quốc về nông nghiệp.
Bộ Nông nghiệp và Môi trường nhận định, tại Việt Nam, các khu công nghệ cao và các vùng công nghệ cao trong nông nghiệp dù đã được xây dựng nhưng chưa hoạt động hiệu quả và chưa thu hút được nhiều doanh nghiệp vào hoạt động. Chưa thực sự tạo ra mạng lưới liên kết và sự hỗ trợ đầy đủ trong các khu vực này. Việc chế biến nông sản bằng công nghệ cao để tạo ra giá trị gia tăng vẫn đang đối mặt với thách thức, các doanh nghiệp chế biến và các dịch vụ hỗ trợ nông nghiệp chưa thu hút được đầu tư và chưa có sự đổi mới công nghệ đáng kể. Ngoài ra, phát triển các doanh nghiệp khởi nghiệp trong lĩnh vực khoa học công nghệ trong nông nghiệp vẫn chưa đạt được những thành tựu như mong đợi. Việc đưa các sản phẩm KHCN vào thị trường đòi hỏi có mạng lưới tiếp thị và tiêu thụ sản phẩm, cần có vai trò của các doanh nghiệp rất lớn.
Trong bối cảnh hiện nay, Phó Chủ tịch Quốc hội, nguyên Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT Lê Minh Hoan nêu vấn đề, làm thế nào để khoa học nông nghiệp tiếp tục tạo nên những bước đột phá? Làm thế nào để đưa Việt Nam từ quốc gia xuất khẩu nguyên liệu thô trở thành trung tâm sản xuất nông sản giá trị cao và bền vững? Ông Hoan cho rằng, trên hành trình vào kỷ nguyên mới, cần giảm gánh nặng đeo bên mình khi cơ chế, chính sách được hiệu chỉnh, nhân lực được tinh gọn. “Hành trang càng nhẹ, tốc độ di chuyển càng nhanh, hiệu quả càng cao”. Song song đó, Ông cũng đề cập đến việc tận dụng tối đa thành tựu công nghệ của nhân loại như trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn hay internet vạn vật vào hoạt động nghiên cứu: “Kỷ nguyên vươn mình cũng là kỷ nguyên trí tuệ nhân tạo AI, là cơ hội để thay đổi tư duy khoa học, phương pháp nghiên cứu khoa học. Chúng ta sẽ thông minh hơn với sự trợ giúp đắc lực của trí tuệ nhân tạo”.
Trình độ ứng dụng còn thấp
Từ kết quả nghiên cứu, tổng hợp từ nhiều công trình khác nhau và Báo cáo Tổng kết chiến lược phát triển KHCN ngành Nông nghiệp và PTNT giai đoạn 2013-2020 thấy, trình độ KHCN, nhất là máy móc, thiết bị được ứng dụng vào SXNN ở nước ta còn lạc hậu và thiếu đồng bộ; tính trung bình thường lạc hậu 2-3 thế hệ (tương đương 20-30 năm). Thậm chí có nơi trình độ công nghệ trong nông nghiệp lạc hậu 4 - 5 thế hệ (khoảng từ 50-70 năm) so với các nước có nền nông nghiệp phát triển.
Trong lĩnh vực cơ giới hóa, các doanh nghiệp sản xuất máy móc, thiết bị máy nông nghiệp chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa, chiếm 95% trong tổng số doanh nghiệp nhưng chỉ đáp ứng khoảng 30% tổng sản lượng sản xuất trong nước. Mức độ cơ giới hoá sản xuất nông nghiệp một số khâu tuy đã đạt cao, nhưng chưa đồng bộ, mới tập trung chủ yếu một số khâu như: làm đất, chăm sóc lúa, mía, cây ăn quả; thu hoạch lúa, mía, cà phê. Tuy nhiên, hầu hết trình độ máy móc, trang bị làm đất có công suất nhỏ, chỉ thích hợp với quy mô hộ và ruộng đất manh mún.
Thủ tướng Phạm Minh Chính thăm cánh đồng trồng dứa của Công ty cổ phần Thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao. Hiện, Công ty là đơn vị xuất khẩu rau quả hàng đầu của cả nước sang thị trường EU. Tổng công suất chế biến rau quả hiện đạt 136.000 tấn sản phẩm/năm.
Phó Thủ tướng Chính phủ, nguyên Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết, số lượng doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn còn thấp, chiếm khoảng 1,3% tổng số doanh nghiệp. Trong đó, đa số là doanh nghiệp quy mô nhỏ và vừa, hạn chế về nhân lực, tài chính, KHCN, khả năng phát triển thị trường và vùng nguyên liệu. Do quy mô nhỏ, đa số các doanh nghiệp nhỏ và vừa không có đủ nguồn lực để đầu tư mua sắm trang thiết bị thử nghiệm, kiểm nghiệm, máy móc thiết bị chế biến và bảo quản tiên tiến. Các doanh nghiệp, hợp tác xã chưa tiếp cận được nguồn chuyên gia có kỹ thuật cao để hỗ trợ, tư vấn phát triển các ý tưởng kinh doanh, hoàn thiện sản phẩm.
Trong khâu thu hoạch, bảo quản nông phẩm, phần lớn trình độ máy móc, thiết bị công nghệ đã lạc hậu 20- 30 năm so với thế giới. Trong khi đó, hệ số đổi mới thiết bị hàng năm còn thấp, chỉ ở mức 7%/năm (bằng 1/2 đến 1/3 mức tối thiểu của các nước khác). Vì vậy, hầu hết nông sản được xuất khẩu dưới dạng thô hoặc mới qua sơ chế; công nghệ bảo quản các mặt hàng thịt, cá, rau, quả tươi còn lạc hậu, quy mô nhỏ, chi phí cao, thời gian ngắn nên khó tiếp cận hoặc không thể cạnh tranh được với nông sản của nước ngoài trên các thị trường khó tính như Mỹ, EU, Nhật Bản…
Đây cũng là một trong những điểm hạn chế lớn của việc ứng dụng KHCN vào SXNN ở Việt Nam trong thời gian qua. Bên cạnh đó, việc ứng dụng KHCN trong nhiều lĩnh vực khác như: thủy nông, điện khí hóa, hóa học hóa, tin học hóa… phục vụ SXNN nhìn chung còn ở trình độ thấp và thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu hiện đại hóa nông nghiệp. Công nghệ thông tin, số hóa mới chỉ được áp dụng trong các mô hình nông nghiệp công nghệ cao, các hợp tác xã, mô hình điểm là chủ yếu. Đa số nông dân vẫn chưa tiếp cận cách làm nông nghiệp hiện đại theo hướng bền vững.
Theo ông Nguyễn Chí Dũng, việc nghiên cứu, ứng dụng KHCN, đổi mới sáng tạo, đào tạo nguồn nhân lực trong nông nghiệp còn hạn chế, chưa trở thành động lực chính để tạo đột phá phát triển. Nhiều loại giống cây trồng, vật nuôi, vật tư nông nghiệp phụ thuộc vào nhập khẩu. Thu hút đầu tư cho phát triển nông nghiệp, dịch vụ ở nông thôn gặp nhiều khó khăn. Thống kê cho thấy, có đến 70-85% nông sản của Việt Nam xuất khẩu dưới dạng thô hoặc với hàm lượng chế biến thấp. Tình trạng được mùa mất giá vẫn diễn ra phổ biến, sản xuất manh mún, chất lượng của hàng nông sản chưa đồng đều. Công nghệ chế biến lạc hậu, không đồng bộ, mẫu mã chưa hấp dẫn, giá thành sản xuất cao. Điều này dẫn đến sản phẩm nông nghiệp cạnh tranh kém và bị ép giá trên thị trường quốc tế.
Hiệu quả chưa cao, thiếu bền vững
Hiện nay, nhiều sản phẩm KHCN, quy trình kỹ thuật được chuyển giao, ứng dụng vào sản xuất chưa đem lại kết quả như kỳ vọng; chưa giải quyết đồng thời được các yêu cầu về tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả và an toàn vệ sinh thực phẩm. Chưa có những công trình nghiên cứu liên ngành mang tính tổng thể cả về kinh tế - xã hội và môi trường nhằm tìm ra một hệ giải pháp mang tính đồng bộ và toàn diện để giúp cho các địa phương trong nước thoát khỏi tình trạng manh mún, lạc hậu trong SXNN hiện nay. Mức độ đóng góp của KHCN và đổi mới sáng tạo chưa trở thành yếu tố chủ lực nâng cao giá trị gia tăng trong SXNN nước ta, mới chỉ đạt khoảng 30%.
Tham quan sản phẩm trưng bày của Đại học Quốc gia Hà Nội tại Diễn đàn Nông nghiệp bền vững Việt Nam - châu Âu với chủ đề: “Nông nghiệp 4.0: Chìa khóa tiếp cận thị trường châu Âu”.
Hoạt động chuyển giao, ứng dụng KHCN vào sản xuất chưa thực sự trở thành nhân tố cơ bản trong phát triển nông nghiệp theo hướng hiện đại và bền vững. Hoạt động khai thác các nguồn lực của tự nhiên cho SXNN còn mang nặng tính tự phát; sử dụng công nghệ lạc hậu và lạm dụng phân hóa học cũng như các loại thuốc bảo vệ thực vật gây tác động xấu đến môi trường, làm tăng mức độ ô nhiễm và suy yếu nguồn tài nguyên trong nông nghiệp, nhất là hệ sinh thái. Ứng dụng KHCN vào sản xuất vẫn chưa đạt được an toàn về dinh dưỡng và an ninh lương thực… Hầu hết các mô hình ứng dụng KHCN vào lĩnh vực môi trường ở các địa phương mới chỉ tập trung giải quyết bề ngoài mà chưa tìm ra các giải pháp công nghệ tổng thể để giải quyết tận gốc rễ của vấn đề ô nhiễm môi trường nông nghiệp, nông thôn…
Theo ông Lê Minh Hoan, ngành Nông nghiệp còn nhiều khó khăn, nhưng cũng phải lạc quan nhận thấy ngành còn nhiều dư địa để khai thác và tiềm năng phát triển. Nông nghiệp Việt Nam đang phát triển theo hướng nông nghiệp tuần hoàn nhưng mới chỉ ở giai đoạn sơ khai của việc khai thác giá trị tuần hoàn, mới chỉ tập trung vào sản phẩm chính, bỏ qua các phụ phẩm. Hiện nay, Việt Nam vẫn bán thô hạt gạo, trong khi bên cạnh hạt gạo còn trấu, thân, lá, rễ…, trong khi tất cả các sản phẩm đều có thể tạo ra các sản phẩm như giá thể cho cây trồng, viên nén… hay kết hợp với các chế phẩm sinh học để tạo ra phân bón hữu cơ.
Hay với cà phê, hiện nay chúng ta chỉ sử dụng 2% giá trị hạt cà phê là nước uống, còn lại 98% chủ yếu vẫn bỏ đi. Trong khi đó bã cà phê có thể tái sử dụng làm giá thể trồng rau thủy canh, làm phân bón cải tạo đất, thậm chí chế biến thành mỹ phẩm. Nhiều quốc gia đã áp dụng nguyên lý tuần hoàn vào bã càphê, lấy bã càphê trồng nấm, rồi lấy toàn bộ phế phụ phẩm còn lại sau thu hoạch nấm làm thức ăn chăn nuôi.
Những mô hình về nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp xanh như vậy buộc chúng ta phải nghĩ khác đi trong công tác chỉ đạo sản xuất. Thay vì bỏ đi và phải tốn thêm công xử lý để bảo vệ môi trường, chúng ta có thể áp dụng nguyên lý tuần hoàn để không bỏ đi thứ gì. Nếu chỉ nhìn vào kết quả xuất khẩu về sản lượng tức là chúng ta mới chỉ khai phá tầng thấp nhất trong chuỗi giá trị là bán thô sản phẩm.
Phó Trưởng ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương, nguyên Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt cho biết, trên thực tế, một số khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao mới ở giai đoạn đầu của đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật vì không có nguồn vốn, đang chờ NSNN. Các khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đã xây dựng hầu hết mới chỉ tập trung vào sản xuất, các chức năng khác như nghiên cứu, chuyển giao, quảng bá sản phẩm chưa được chú trọng nên chưa phát huy được chức năng, vai trò hạt nhân lan tỏa, phục vụ thúc đẩy phát triển ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất nông nghiệp của vùng, khu vực. Do đó, đối với việc phát triển các khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, các địa phương có khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao có trách nhiệm trong việc bảo đảm các khu phát triển đúng chức năng, nhiệm vụ, tuyệt đối tránh việc bị méo mó mô hình hoạt động.
Theo ông Lê Minh Hoan, thời gian qua, các nhà khoa học đã tập trung nghiên cứu và phát triển các sản phẩm KHCN hữu ích trong lĩnh vực nông nghiệp. Tuy nhiên, các sản phẩm KHCN này chưa đến được nhiều với những đơn vị ứng dụng do còn thiếu thông tin. Các doanh nghiệp và hợp tác xã nông nghiệp hiện rất cần những sản phẩm KHCN, song chưa nắm được thông tin để tiếp cận.
Trước đây, khi có một sản phẩm KHCN, chúng ta thường tổ chức hội đồng để nghiệm thu. Tuy nhiên, từ quá trình nghiệm thu đến thực tế vẫn còn nhiều khoảng cách. Vì vậy, sự tăng cường trao đổi là cần thiết, nhằm đảm bảo cho các đề tài nghiên cứu không chỉ có giá trị về mặt lý thuyết, mà còn phù hợp với điều kiện thực tế với chi phí hợp lý.
Ông Hoan nhấn mạnh, KHCN không chỉ dừng lại là tạo năng suất, sản lượng mà là tạo ra giá trị gia tăng. Giá trị gia tăng đến từ tích hợp đa giá trị trong một ngành với hướng tới mục tiêu giảm chi phí. Ví dụ như: Nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp tuần hoàn, nông nghiệp hữu cơ, rồi nông nghiệp xanh, giảm phát thải… nhằm tạo thương hiệu, giá trị gia tăng. Đó chính là hướng đi của KHCN trong tương lai.
Thời gian tới, Bộ Nông nghiệp và Môi trường sẽ tiếp tục huy động nguồn vốn đầu tư tập trung cơ sở vật chất, hệ thống trang thiết bị phục vụ nghiên cứu, thí nghiệm của các đơn vị với quy mô lớn thay vì đầu tư nhỏ lẻ cho từng đơn vị như trước đây nhằm đáp ứng cơ bản nhu cầu phát triển, đặc biệt là một số thiết bị hiện đại tương đương khu vực và quốc tế.
Hoàng Văn - KTNT
|
![]() ![]() ![]() |
[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
|