Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  13
 Số lượt truy cập :  33462086
Tuần tin khoa hoc 347 (30/9 - 06/10/2013)
Thứ sáu, 27-09-2013 | 15:26:03

Ảnh hưởng của cà tím Bt đối với kiến trúc của quần thể vi khuẩn sống ở rễ

 

Một nghiên cứu kéo dài 2 năm đã được thực hiện để xem xét giống cà tím biến đổi gen Bt (Bt brinjal) có ảnh hưởng gì đến cấu trúc của quần thể vi khuẩn sống ở vùng rễ (rhizospheric bacterial community structure). Govind Kumar Rai và ctv. thuộc Viện Nghiên cứu rau Ấn Độ đã thanh lọc một cây sự kiện Bt (VRBT-8) sử dụng phương pháp xét nghiệm sinh học côn trùng và miễn dịch bởi enzyme (enzyme-linked immunosorbent assay). Sự khuếch đại DNA thông qua PCR cho thấy số lượng bản sao chép gen của vi khuẩn (16S rRNA gene copies) thấp hơn ở trong đất trồng cây cà tím Bt. Phân tích sâu hơn cho thấy có một sự giảm nhẹ sinh khối vi sinh vật trong đất trồng cà tím Bt. Các đoạn phân tử của gen còn cho thấy 13 nhóm vi khuẩn khác nhau với sự hiện diện chủ yếu của β-Proteobacteria, Chloroflexus, Planctomycetes, và Fusobacteria trong đất trồng cà tím không có Bt, và CyanobacteriaBacteroidetes trong đất có trồng cà tím Bt. Điều này khẳng định có những thay đổi nhỏ trong cấu trúc quần thể. Ảnh hưởng của cà tím Bt đối với cộng đồng quần thể vi khuẩn sống trong đất ở vùng rễ được xem như rất ít tác động so sánh với ảnh hưởng thay đổi do mùa vụ. Xem tóm tắt

http://link.springer.com/article/10.1007/s00248-013-0287-z

 

Tính chất kết gắn của Cry Proteins đối với màng bảo vệ côn trùng có hại

 

 Cry proteins của vi khuẩn sống trongđất Bacillus thuringiensis rất hữu hiệu trong việc diệt trừ sâu bọ có hại cho cây trồng một cách chuyên tính. Tuy nhiên, những côn trùng này cũng kháng lại được Cry proteins bằng cách tiến hóa theo thời gian, biểu thị bằng cách làm giảm sự gắn kết của những Cry proteins đối với các vị trí xung yếu trên màng hấp thu dưỡng chất (brush border membranes) của ruột non ấu trùng. Cry proteins có những binding sites khác nhau là phương tiện vô cùng hiệu quả để làm giảm sự tiến hóa của tính kháng như vậy. Yong-jun Zhang và ctv. thuộc Chinese Academy of Agricultural Sciences đã nghiên cứu đặc tính kết gắn này của Cry proteins đối với các loài côn trùng khác nhau. Kết quả xét nghiệm sinh học cho thấy độc tính của những Cry proteins khác nhau biến thiên cũng khác nhau đối với từng loài côn trùng. Mức độ biến thiên của độc tố được xếp theo: sâu hại quả bông (Helicoverpa armigera)-Cry1Ac>Cry1Ab>Cry2Ab; sâu xanh trên củ cải đường (Spodoptera exigua)-Cry1B>Cry1C>Cry2Ab; sâu xanh oriental leafworm (S. litura)-Cry2Ab>Cry1B> Cry1C. Chỉ có Cry2Ab tỏ ra độc hại đối với sâu black cutworm (Agrotis ipsilon). Xem

http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S209531191360427X.

 

Di truyền về mùi

 

Người ta có thể ngửi được các mùi khác nhau, theo kết quả nghiên cứu được công bố trên tạp chí Current Biology. Sự khác biệt về di truyền của những cá thể khác nhau khẳng định khả năng nhận biết các mùi cũng khác nhau giữa từng người. Có khoảng 200 người được trắc nghiệm về khả năng cảm nhận của họ đối với mùi khác nhau. Những vùng của phân tử DNA khác nhau giữa những đối tượng thử nghiệm có thể nhận biết mùi của một hợp chất nào đó mà người khác có thể không có. Nghiên cứu chỉ ra rằng mức độ nhạy cảm đối với 4 đối tượng: malt (mạch nha làm men bia), apple (táo), blue cheese (phó mát xanh) và hoa violet trên cơ sở nền tảng di truyền khác nhau. Những khác biệt về mức độ cảm nhận mùi không giống như trường hợp chủng tộc loài người. Xem

http://www.plantandfood.co.nz/page/news/media-release/story/genetics-of-smell/.

 

Ba nhà khoa học được giải thưởng “ARS Science Hall of Fame”

 

Nhà báo Dennis O'Brien viết trên tờ tin ARS (Agricultural Research Service) của Bộ Nông Nghiệp Hoa Kỳ, ngày 11-9-2013, nội dung như sau:  Ba nhà khoa học được tổ chức ARS của USDA, Hoa Kỳ được xét tặng giải thưởng cao quý “Science Hall of Fame” vì những công trình khoa học nông nghiệp xuất sắc của họ. Đó là Rufus L. Chaney, Sarah HakeDavid W. Ramming (hình: từ trái sang phải) họ được trao tặng giải thưởng tại U.S. National Arboretum vào tối ngày 11-9-2013. ARS thành lập Giải Thưởng Science Hall of Fame từ năm 1986 nhằm ghi nhận những cống hiến xuất sắc của các nhà khoa học nông nghiệp Mỹ. Các ứng viên phải là người đã nghỉ hưu, từng tham gia nghiên cứu khoa học nông nghiệp, có thành tích xuất sắc.

Chaney, là một nhà nông học của Phòng thí nghiệm sử dụng phụ phế phẩm nông sản và quản lý môi trường của ARS, tại Beltsville, Md. Ông là một chuyên gia quốc tế về thẩm định mức độ rủi ro của môi trường và sức khỏe mọi người, thông qua hàm lượng kim loại nặng làm đất bị ô nhiễm, sử dụng phân chuồng, biosolids, phân composts và các chất dinh dưỡng khác. Công việc của Chaney trở nên thu hút mọi người khi ông khẳng định sự an toàn và bền vững của một giống cây trồng trong những hệ thống canh tác. Ông còn tìm thấy những kỹ thuật tân tiến để tái chế phụ phế phẩm, các chất thải có độc tính thành chất hữu dụng và những “Superfund sites”, sử dụng phân ủ (composts), vôi + chất phụ phế phẩm nhằm tối thiểu hóa những rủi ro cho môi trường vì kim loại nặng có trong đất.

Hake, Bà từng là giám đốc của Trung Tâm Nghiên Cứu Sự Thể Hiện Gen Thực Vật của ARS tại Albany, California. Bà là nhà khoa học đầu tiên dòng hóa được gen có tính chất phát triển trong sử dụng một nguyên tố “transposable” hoặc "jumping gene”. Bà cũng là người đầu tiên phân lập được một lớp gen (class of genes) trong cây; chúng hoạt động như một “cascade” của những gen khác. Phát hiện này đối với những gen gây ảnh hưởng quan trọng (influential genes) đã xác định được kiến trúc của thực vật, là một sự kiện gây ngạc nhiên tạo nên nội dung của bộ gen cây trồng. Mặt khác, Bà còn nghiên cứu những cơ chế biến dưỡng trong cây trồng. Hake chứng minh rằng protein được mã hóa từ gen di chuyển thông qua các tế khổng ở thành tế bào, có ảnh hưởng đến hoạt động của những tế bào kế cận. Đây là một kết quả có tính chất đột phá và được hàng nghìn sự tham khảo của các nhà khoa học khác. Công trình của Bà về phát triển kiến trúc của lá, hoa trong cây bắp đã đưa Bà vào hàng các nhà sinh thực vật học tầm cỡ của thế giới.

Ramming, về hưu vào tháng Giêng năm nay, đã từng làm việc tại Trung Tâm Khoa Học Nông Nghiệp San Joaquin Valley của ARS tại Parlier, California. Ông đã sáng tạo ra 40 giống cây nho: (table grapes, raisin grapes), đào, mơ (apricots) và cây ăn quả khác. Ông được công nhận nhiều tiến bộ kỹ thuật liên quan đến việc canh tác hợp lý các giống này, chuyển giao đến nông dân canh tác. Mười lăm giống nho (table grapes) của ông chiếm một nửa số giống nho của vùng California. Ông còn chủ trì nghiên cứu một hệ thống tái sinh cây cho phép chuyển nạp gen thành công vào cây nho, thúc đẩy nhanh tiến trình phát triển các giống cây trồng mới. Những kỹ thuật cứu sống phôi mầm của ông đã góp phần rút ngắn thời gian tạo giống mới rất có ý nghĩa trong sản xuất nho.

Xem chi tiết: http://www.ars.usda.gov/is/pr/2013/130911.htm

 

Thông báo

 

IHC 2014 - ISHS/ProMusa Symposium

 

 ISHS2014/ProMusa Symposium với chủ đề "Khai thác tiềm năng của bộ gen cây chuối" sẽ diễn ra vào ngày 21-22 tháng Tám 2014, như một symposia của Đại Hội Quốc tế lần thứ 29 về Horticulture tại Brisbane, Australia. Đăng ký dự IHC 2014 bắt đầu từ 30-9-2013. Xem chi tiết

 http://www.promusa.org/tiki-read_article.php?articleId=117 .

 

Hội nghị quốc tế lần thứ 5 về công nghệ thực phẩm và công nghệ sinh học


Hội nghị quốc tế lần thứ 5 về CNTP và CNSH sẽ được tổ chức vào ngày 12-14 tháng Ba năm 2014 tại Penang, Malaysia. Xem thông tin

 

 

Trở lại      In      Số lần xem: 3286

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD