Giảm sự thể hiện gen GIGANTEA làm gia tăng tính chống chịu mặn của cây cải canola và cây Arabidopsis
Gen GIGANTEA (GI) có vai trò quan trọng trong việc trổ hoa theo chu kỳ ánh sáng và góp phần giúp cây phản ứng lại với nhiều loại hình stress do môi trường. Jin A. Kim và đồng nghiệp thuộc Viện Hàn Lâm Khoa Học Nông Nghiệp Hàn Quốc và nhiều Viện nghiên cứu khác + các trường Đại Học, đã ghi nhận làm thế nào gen GI trong cây canola Ba Lan (polish canola: tên khoa học là Brassica rapa), gen BrGI, khá giống với gen GI trong cây Arabidopsis xét theo cách thể hiện và chức năng. Gen BrGI, khi thể hiện trong cây Arabidopsis có đột biến mất đoạn (GI-loss-of-function mutant), đã cứu lại kiểu hình trổ hoa muộn của nó, cho thấy gen BrG1 có vai trò trổ bông theo quang chu kỳ. Theo đó, sự ức chế của phân tử RNAi đối với việc thể hiện gen GI trong cây Arabidopsis và trong cây “polish canola” đã làm tăng tính chống chịu mặn trong cả hai cây này. Kết quả cho thấy chức năng phân tử của gen GI trong cây Arabidopsis còn được minh chứng trong cây cải canola. Cách thao tác việc thể hiện gen thông qua phân tử RNAi và thông qua sự thể hiện mạnh mẽ gen chuyển nạp BrG1: có thể tăng cường tính chống stress phi sinh học của cây cải canola. Xem Plant Cell Reports.
TaZFP34 – Gen làm tăng cường tỷ lệ giữa rễ và chồi thân của cây lúa mì
Các protein thuộc họ “Zinc finger proteins: ZFPs) là những protein đặc biệt kết gắn với phân tử DNA có một motif mang tính bảo thủ cao là QALGGH. Hongping Chang và ctv. thuộc ĐH Hunan, Trung Quốc và nhiều Viện nghiên cứu khác, đã nghiên cứu chức năng của việc nhạy cảm với stress phi sinh học cũng như việc thể hiện ưu tiên qua rễ của cây lúa mì (Triticum aestivum) protein ZFP, gen TaZFP34. Sự thể hiện gen TaZFP34 trong rễ lúa mì được tìm thấy có cách điều tiết theo kiểu UP bởi môi trường bị nhiễm mặn cao, thiếu nước, môi trường oxidative, và các stres lạnh. Mặt khác, sự thể hiện mạnh mẽ gen TaZFP34 trong rễ lúa mì cho kết quả làm tăng tỷ lệ giữa rễ và chồi thân, được người ta quan sát một cách bình thường trong quá trình cây thích nghi với đất bị khô do thiếu nước. Sự thể hiện các gen này bao gồm cả việc điều khiển sự tăng trưởng của rễ và làm thay đổi trong rễ của cây có biểu hiện mạnh mẽ gen TaZFP34. Hơn nữa, số lượng phân tử transcript của những gen tương đồng của các phân tử regulators không tích cực trong tăng trưởng rễ suy giảm đáng kể; trong khi, sự thể hiện của những gen liên quan đến tăng trưởng chồi thân điều tiết theo kiểu DOWN trong thân cây chuyển nạp gen. Kết quả nghiên cứu cho thấy gen TaZFP34 là một phân tử ức chế mang tính chất phiên mã và có chức năng điều tiết tỷ lệ rễ : chồi hợp lý. Xem Plant Science.
Đường của thực vật ảnh hưởng sự truyền bệnh sốt rét
.)
Muỗi cái hút máu người như một nguồn thức ăn, nhưng chúng còn tiêu thụ đường từ đĩa mật của hoa (nectar), trái cây, và nhựa cây. Một nghiên cứu đã được công bố trong tạp chí PLOS Pathogens cho thấy rằng: phần thức ăn của chúng từ thực vật mới là nguyên nhân gây ảnh hưởng truyền bệnh sốt rét, thông qua ảnh hưởng tương tác giữa ký chủ và ký sinh, trong mối quan hệ của muỗi Anopheles và ký sinh trùng Plasmodium. Nghiên cứu của Domonbabele Hien và Thierry Lefevre, từ “Institut de Recherche en Sciences de la Santé”, Bobo Dioulasso, Burkina Faso đã xem xét tác động của sự đa dạng thực vật đối với tính nhiễm của muỗi đối với ký sinh trùng gây bệnh sốt rét. Họ đã nghiên cứu sự tương tác tự nhiên giữa P. falciparum parasite (hình trái), và muỗi Anopheles coluzzii (vector chính của P. falciparum ở Châu Phi), và các nguồn đường trong tự nhiên của các loài thực vật khá đa dạng, hiện hữu gần nơi ở của người tại Burkina Faso, ví dụ cây cảnh có hoa đẹp (B. lupilina và T. neriifolia), cũng như cây xoài, cây Lannea microcarpa có quả giống quả nho (hình giữa trái). Kết quả cho thấy nguồn đường thực vật có thể là một tác nhân truyền bệnh có ý nghĩa bệnh sốt rét. Cả hai cây L. microcarpa và cây Barleria lupilina (cây gai kim vàng, hình giữa phải) đã làm gia tăng sự truyền bệnh sốt rét ước khoảng 30% và 40%, theo thứ tự. Bởi vì mức độ nhiễm bệnh tăng trong những con muỗi truyền sang ký sinh trùng thông qua thức ăn là máu của chúng. Trái lại, cây Thevetia neriifolia (hình trái) có ảnh hưởng âm tính xét về mức độ lây nhiễm và làm giảm tuổi thọ, được người ta dự đoán là sẽ làm giảm sự truyền bệnh sốt rét đến 30% khi so sánh với nghiệm thức nước đường.
Xem Institut de recherche pour de développement website.
Muỗi biến đổi gen kiểm soát bệnh tại Cayman Islands và Florida
Chính quyền của Cayman Islands (Liên hiệp Anh) đã nỗ lực trong công tác bảo vệ sức khỏe cư dân của họ đối với các bệnh truyền nhiễm có liên quan đến muỗi, thông quan việc áp dụng thả muỗi biến nạp gen mong muốn, bằng kỹ thuật di truyền. Khởi động từ điểm nóng của muỗi ở West Bay, dự án được thực hiện bởi “Cayman Islands Mosquito Research and Control Unit” được viết tắt là MRCU và tổ chức Oxitec. Muỗi biến đổi gen (GE mosquitoes) được biết là với thuật ngữ Friendly™ Aedes đã được tổ chức Oxitec phát triển. Chúng có một gen mà gen ấy giết chết muỗi non ở giai đoạn ấu trùng để ngăn ngừa sự lan rộng của bệnh sốt xuất huyết (Dengue Fever), bệnh Zika, bệnh Chikungunya, và bệnh sốt vàng da (Yellow Fever). Muỗi đực GM thụ tinh với with muỗi cái nguyên thủy, chúng sẽ sản sinh ra ấu trùng không có khả năng sống sót, chúng sẽ chết trước khi trưởng thành.
Tại Hoa Kỳ, tổ chức FDA (Food and Drug Administration) đã cho phát triển kết quả gần đây nhất của họ về tác động không có ý nghĩa (FONSI) và kết quả đánh giá về môi trường (EA) trên muỗi “Oxitec's self-limiting OX513A” tại điểm khảo nghiệm ở Florida Keys. Theo đó, một thí nghiệm đồng ruộng của muỗi GE tại Key Haven, Florida, sẽ không dẫn đến bất cứ một tác động đáng kể nào về môi trường. Xem chi tiết Cayman Island release và US FDA findings.
PHÁT HIỆN 'Switch' BẬT TẮT SỰ TRỔ BÔNG THỰC VẬT
Các nhà khoa học thuộc John Innes Centre (JIC) đã phát hiện một nội dung chưa được biết từ trước trong tiến trình thụ hàn (vernalization), nó liên quan đến một gen vô cùng quan trọng có nhiệm vụ quyết định khi nào trổ bông đối với các protein điều tiết nó. Nghiên cứu trước đây cho thấy sự trổ bông bị ức chế bởi gen FLOWERING LOCUS C (FLC). Trong điều kiện nhiệt độ lạnh, các proteins xung quanh nó, thực hiện việc bao bọc gen này; từ đó, gen đã được cải biên một cách tiến bộ. Điều ấy đã khóa lại sự thể hiện gen, cuối cùng, cho phép cây mở công tắc chuyển từ gia đoạn tăng trưởng sang thời kỳ trổ bông. Các phân tử regulators bao gồm nội dung đóng gen FLC được hình thành nên, nhưng làm thế nào các “regulators” như vậy xác định ra những mục tiêu một cách chính xác? Người ta vẫn chưa biết rõ ràng. Nghiên cứu mới mẽ này của JIC do Bà Giáo sư Caroline Dean (hình) đã xem xét quần thể cây đột biến, rồi nhận ra rằng họ vẫn thất bại khi muốn biết sự đáp ứng cực kỳ chính xác đối với lạnh. Họ tiếp tục theo dõi: khi đột biến này xảy ra, có một cặp base thay đổi trong gen FLC. Những thí nghiệm sau đó đã xác định thành công làm thế nào protein VAL1 xác định được trình tự DNA trong gen FLC. Thực vật không đáp ứng một cách chính xác phản ứng khi bị lạnh rét, nhưng đột biến ấy đã ngăn ngừa được sự ghi nhận ấy, sao cho gen FLC không tắt. Xem JIC website.
.jpg)
Hình: Trái: Cây nguyên thủy có gen FLC. Protein VAL1 có thể xác định ra trình tự đích, kết gắn với gen này & khởi động việc trổ bông. Phải: cây có gen FLC đột biến. VAL1 không thể xác định & kết gắn với gen này, cho nên cây không trổ bông.
THÔNG BÁO
CSS 2016 VÀ TRIỂN LÃM HẠT GIỐNG
Hội nghị nghiên cứu về hạt giống cao lương, ngô lần thứ 71 / triển lãm hạt giống 2016 được tổ chức vào ngày 5-9, tháng 12, 2016; tại Chicago, Illinois, Hoa Kỳ. Xem conference website.
|
[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
|