Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

 

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  18
 Số lượt truy cập :  36641901
Xử lý bùn thải sinh học bằng giun Quế tạo ra sản phẩm phân bón hữu cơ
Thứ tư, 10-08-2016 | 05:59:09

Nghiên cứu do tác giả Phạm Thị Ngọc Lan thuộc khoa Môi trường, Trường Đại học Thủy lợi thực hiện.

 

 

Bùn thải sinh học phát sinh từ các hệ thống xử lý nước thải sinh hoạt chứa một lượng lớn chất hữu cơ, N, P rất thích hợp cho việc sử dụng làm phân bón. Tuy nhiên, ở Việt Nam phần lớn lượng bùn thải sinh ra từ các trạm xử lý nước thải đều đem đi chôn lấp hoặc đổ bỏ hoặc xử lý chưa triệt để không những gây lãng phí một nguồn tài nguyên, mà còn gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng ảnh hưởng đến sức khỏe con người . Vì vậy, việc nghiên cứu khả năng xử lý bùn thải sinh học phát sinh từ hệ thống xử lý nước thải sinh hoạt bằng giun Quế có một ý nghĩa thực tiễn và môi trường tốt.

Nghiên cứu trình bày kết quả nghiên cứu xử lý bùn thải sinh học bằng giun Quế để tạo ra sản phẩm phân bón hữu cơ dùng trong sản xuất nông nghiệp. Các thí nghiệm về tỷ lệ phối trộn khác nhau giữa bùn và bèo lục bình, bùn và chất thải nhà bếp đã được thực hiện nhằm tìm ra tỷ lệ tối ưu cho quá trình phối trộn là 75%:25%. Độ ẩm, pH, nhiệt độ, trong quá trình thực nghiệm đã được quan trắc.

Kết quả phân tích cho thấy việc bổ sung thêm chất độn giúp tăng thêm hàm lượng chất hữu cơ, ni tơ tổng, P hữu hiệu và ka li hữu hiệu vào trong bùn thải. Cụ thể là: sau khi xử lý, hàm lượng chất hữu cơ trong phân được tạo ra đạt giá trị 19,27 - 21,3%, hàm lượng Ni tơ tổng số đạt 4,08 - 5,41%, hàm lượng P hữu hiệu đạt giá trị 1,5 -1,95%, hàm lượng K hữu hiệu đạt giá trị 0,59 - 0,69%. Bên cạnh đó, một số vi khuẩn đường ruột điển hình (Coliform) cũng như kim loại nặng (Pb) đã được đo trong bùn đầu vào và trong phân sau khi ổn định bằng giun Quế cho thấy thấp hơn ngưỡng quy định trong TT 41/2014/TT-BNNPTNT. Số lượng Coliform trong sản phẩm bùn sau xử lý đạt giá trị 17 CFU/g, hàm lượng kim loại nặng (Pb) giảm từ 4,17 mg/kg xuống còn 3,61 mg/kg (giảm 0,56 mg/kg so với đầu vào). Mô hình phân hữu cơ-khoáng tạo ra được khảo nghiệm trộn với đất theo tỷ lệ 7:3 để trồng hai loại cây rau mùa đông: cải ngồng và cải xanh trong 6 tuần và có đối chứng với mô hình phân hữu cơ-khoáng mua trên thị trường, cho thấy sự sinh trưởng của hai loại rau này gần như nhau.

Qua nghiên cứu, tác giả đã đưa ra kiến nghị: (1) Kết quả nghiên cứu cho thấy  một vấn đề mới về khả năng xử lý kim loại nặng của giun Quế và cần được tìm hiểu thêm trong khuôn khổ một nghiên cứu khác; (2) Cần nghiên cứu thêm tỷ lệ pha trộn giữa bùn sinh học và chất độn giúp giun sinh trưởng tốt nhất, đồng thời cần tiến hành phân tích các thông số trong bùn thải để có thể đưa ra một giới hạn thông số thích hợp đối với sự phát triển của giun Quế.

ltnanh - Canthostnews, theo TC NN&PTNT.

Trở lại      In      Số lần xem: 3842

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Tuần tin khoa học 492 (15-21/08/2016)
  • Sử dụng cây che phủ để loại bỏ chất ô nhiễm khỏi đất canh tác
  • Hấp thu không khí, tạo ra năng lượng
  • Tác động của pH đến năng suất, sự phát triển rễ và hấp thụ dinh dưỡng của cây hồ tiêu (Piper nigrum L.)
  • Sâu bệnh hại ngô chịu ảnh hưởng của khí hậu
  • Phản ứng với stress mặn của lúa (Oryza sativa L.) với sự đa dạng ở giai đoạn lúa trổ đến thu hoạch
  • Ảnh hưởng của ba khoảng cách hàng trên các đặc tính nông học và năng suất của năm giống đậu nành [Glycine max (L.) MERR.] vụ xuân hè 2015 tại tỉnh Vĩnh Long
  • Các phân tử nhỏ giúp tạo ra ngũ cốc thông minh hơn
  • Đánh giá tính thích nghi và ổn định của các dòng/giống Lúa thơm triển vọng ở đồng bằng sông Cửu Long
  • Giải trình hệ gien của bệnh nấm có thể giúp ngăn chặn bệnh hại chuối
  • Một gen tương đồng của cây lúa đối với gen của cây arabidopsis “agd2-like defense1” đóng góp vào tính kháng bệnh đạo ôn do nấm Magnaporthe oryzae
  • Đồng phân LuxR ký gửi trên cây populus deltoides, kích hoạt sự thể hiện gen đáp ứng với tín hiệu thực vật hoặc những peptides đặc biệt
  • Cây lúa có hiệu quả sử dụng nitơ tốt hơn
  • Khám phá thêm những bí mật về loài hoa hướng dương
  • Nghiên cứu sản xuất và sử dụng chế phẩm từ nấm Lecanicillium spp, để diệt rệp muội (Aphidae) gây hại cây trồng
  • Nghiên cứu thời gian sử dụng thuốc trừ sâu tốt nhất để kiểm soát bệnh vàng lá gân xanh
  • Thuốc bảo vệ thực vật bảo vệ cây trồng như thế nào?
  • Đồng hồ sinh học của nấm: Mục tiêu tiềm năng trong phòng chống bệnh thực vật
  • Đo thời gian lưu trú của nitơ trong đất có thể giúp ích cho nông nghiệp
  • Nghiên cứu ảnh hưởng của chế phẩm nấm rễ cộng sinh Arbuscular Mycorriza Fungi (AMF) đến sinh trưởng, phát triển cây đinh lăng tại Gia Lâm – Hà Nội
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD