“Thời điểm vàng” để Việt Nam nghiên cứu và hoàn thiện khung pháp lý cho công nghệ chỉnh sửa gen trong nông nghiệp
Khoa học và công nghệ đang trở thành động lực then chốt thúc đẩy nông nghiệp Việt Nam phát triển bền vững, nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh trên thị trường toàn cầu. Việc hoàn thiện khung pháp lý chính là điều kiện tiên quyết để khoa học công nghệ phát huy hiệu quả.

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến Phát biểu khai mạc Diễn đàn “Chỉnh sửa gen trong nông nghiệp - Công nghệ chiến lược gắn với khung pháp lý”.
Khoa học và công nghệ là động lực then chốt thúc đẩy nông nghiệp phát triển bền vững
Phát biểu khai mạc Diễn đàn “Chỉnh sửa gen trong nông nghiệp - Công nghệ chiến lược gắn với khung pháp lý” tổ chức sáng 18/10, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến nhấn mạnh, khoa học và công nghệ đang trở thành động lực then chốt thúc đẩy nông nghiệp Việt Nam phát triển bền vững, nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh trên thị trường toàn cầu.
Theo Thứ trưởng, tinh thần phát triển khoa học công nghệ đã được khẳng định rõ trong Nghị quyết số 19 về phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn, đặc biệt là định hướng phát triển nông nghiệp hữu cơ và kinh tế tuần hoàn. Gần đây, Nghị quyết số 57 của Bộ Chính trị ban hành ngày 10/7/2024 tiếp tục nhấn mạnh khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo là động lực chủ yếu để hiện đại hóa lực lượng sản xuất, đưa nền kinh tế Việt Nam tiến tới giá trị gia tăng cao hơn.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, khoa học công nghệ hiện đóng góp khoảng 30% giá trị gia tăng toàn ngành. Nhờ ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, nông nghiệp Việt Nam không chỉ đảm bảo an ninh lương thực quốc gia mà còn góp phần ổn định nguồn cung cho thế giới. “Năm 2025, ngành nông nghiệp có thể đạt kỷ lục xuất khẩu khoảng 67-70 tỷ USD - một minh chứng cho hiệu quả của đổi mới khoa học công nghệ”, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến nói.
Trong các lĩnh vực công nghệ, công nghệ sinh học được xem là mũi nhọn với tiềm năng đột phá. Việt Nam đang ứng dụng nhiều hướng nghiên cứu như công nghệ chuyển gen, chỉ thị phân tử (marker), nuôi cấy mô, phôi và tế bào nhằm chọn tạo giống cây trồng, vật nuôi thích ứng biến đổi khí hậu, nâng cao năng suất và giá trị sản phẩm.
Tuy nhiên, lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho rằng, dù nguồn lực và chủ trương đã có, việc hoàn thiện khung pháp lý vẫn là điều kiện tiên quyết để khoa học công nghệ phát huy hiệu quả. “Chúng ta cần tạo môi trường và động lực để các nhà khoa học yên tâm cống hiến, tránh tình trạng họ trăn trở với nghiên cứu nhưng vẫn lo lắng cho cuộc sống”, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến chia sẻ.
Ông ví diễn đàn sáng 18/10 sẽ góp phần tạo ra một “Khoán 10” mới trong khoa học công nghệ, giúp “cởi trói” cho nhà nghiên cứu, khuyến khích sáng tạo và khơi dậy tinh thần dấn thân trong cộng đồng khoa học.
Theo Thứ trưởng, sự kiện diễn ra rất đúng thời điểm, là cơ hội để tổng kết lý luận, thực tiễn, qua đó hình thành những luận cứ quan trọng cho việc xây dựng, chỉnh sửa và bổ sung các quy định pháp luật, tạo nền tảng cho sự bứt phá của khoa học công nghệ trong nông nghiệp giai đoạn mới.
Cần sớm xây dựng khung pháp lý cụ thể về chỉnh sửa gen
TS. Trần Minh Thu, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Vinaseed, cho biết, dù đã xây dựng được hệ sinh thái từ nghiên cứu, sản xuất đến thương mại, Công ty vẫn đang đối mặt với nhiều thách thức lớn như biến đổi khí hậu, dịch bệnh trên cây trồng và áp lực cạnh tranh ngày càng gay gắt.
Thực tế, trước đây một giống cây có thể tồn tại ổn định từ 3-5 năm, nhưng hiện nay có những giống chỉ sau một năm ra thị trường đã bị thay thế. Vinaseed hiện vẫn chủ yếu chọn tạo giống bằng phương pháp lai tạo truyền thống, đòi hỏi thời gian dài và nguồn lực lớn.

Với sự xuất hiện của công nghệ chỉnh sửa gen, các doanh nghiệp quy mô nhỏ cũng có thể rút ngắn đáng kể thời gian chọn tạo, đồng thời nâng cao năng suất, chất lượng và khả năng chống chịu của giống cây trồng. (Ảnh: Thanh Tâm).
Chẳng hạn, giống lúa Đào Thơm nổi tiếng của công ty phải mất tới bảy năm mới hoàn thiện. Tuy nhiên, với sự xuất hiện của công nghệ chỉnh sửa gen, các doanh nghiệp quy mô nhỏ cũng có thể rút ngắn đáng kể thời gian chọn tạo, đồng thời nâng cao năng suất, chất lượng và khả năng chống chịu của giống cây trồng.
TS. Thu cho rằng đây là “thời điểm vàng” để Việt Nam nghiên cứu, ứng dụng công nghệ chỉnh sửa gen, song cần phân biệt rõ giữa chỉnh sửa gen (GE) và biến đổi gen (GMO) để có định hướng thương mại phù hợp.
“Chúng ta cần sớm xây dựng khung pháp lý cụ thể về chỉnh sửa gen, dựa trên kinh nghiệm từ các quốc gia khác như Australia, Mỹ và Singapore. Đồng thời, đẩy mạnh mô hình hợp tác công - tư, trong đó doanh nghiệp phối hợp với các viện nghiên cứu các giống mới để giảm gánh nặng ngân sách, phù hợp với nhu cầu thị trường, góp phần nâng cao thu nhập cho nông dân và thúc đẩy nông nghiệp bền vững”, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Vinaseed cho biết.
Cần hiểu đúng bản chất của công nghệ chỉnh sửa gen, tránh nhầm lẫn với GMO
Chia sẻ tại Diễn đàn, TS. Nguyễn Duy Phương, Trưởng Bộ môn Bệnh học phân tử (Viện Di truyền Nông nghiệp), cho biết công nghệ chỉnh sửa gen đã và đang mở ra hướng đi mới cho chọn giống cây trồng hiện đại, với tiềm năng rút ngắn thời gian và chi phí nghiên cứu so với công nghệ chuyển gen truyền thống.
Ông cho biết, trên thế giới, công nghệ chỉnh sửa gen phát triển mạnh mẽ từ đầu những năm 2000, với hàng nghìn công bố khoa học mỗi năm. Các ứng dụng chủ yếu tập trung vào cây trồng nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, khả năng chống chịu sâu bệnh và thích ứng với biến đổi khí hậu. Ưu điểm nổi bật là có thể rút ngắn chu kỳ chọn giống từ 6-15 năm xuống còn 2-5 năm, đồng thời tăng độ chính xác khi chọn lọc các tính trạng mong muốn.
Theo TS. Phương, cần phân biệt rõ giữa công nghệ chuyển gen (transgenic technology) - tức là tạo sinh vật có ADN ngoại lai, và công nghệ chỉnh sửa gen (gene editing) - thay đổi ADN nội sinh của chính sinh vật đó. Trong nhóm công nghệ chỉnh sửa gen, CRISPR-Cas9 hiện là công cụ phổ biến nhất, giúp tạo ra các đột biến chính xác mà không để lại dấu vết ADN lạ.
Tại Việt Nam, nền tảng khoa học và nhân lực cho lĩnh vực này đã hình thành rõ nét. Nhiều đơn vị nghiên cứu như Viện Di truyền Nông nghiệp, Viện Sinh học Việt Nam và một số trường đại học đã tiếp cận, triển khai và bước đầu làm chủ công nghệ chỉnh sửa gen, đạt được những kết quả đáng khích lệ trong nghiên cứu cơ bản và ứng dụng thử nghiệm, tạo ra nhiều sản phẩm cây trồng mới sẵn sàng đưa vào khảo nghiệm phục vụ sản xuất. Tuy nhiên, ông Phương cho rằng công nghệ này hiện đang bị “trói buộc” bởi việc thiếu quy chế quản lý riêng, khiến nhiều kết quả nghiên cứu chưa thể thương mại hóa.
“Đảng và Chính phủ đã xác định chỉnh sửa gen là công nghệ chiến lược. Vấn đề bây giờ là chúng ta cần sớm hoàn thiện hành lang pháp lý, tạo điều kiện cho các nhà khoa học, doanh nghiệp ứng dụng và thương mại hóa kết quả nghiên cứu”, ông nhấn mạnh.
Ông cũng khuyến nghị Việt Nam nên tiếp cận quản lý cây trồng chỉnh sửa gen theo hướng “đánh giá sản phẩm cuối cùng” thay vì quá chú trọng phương pháp tạo ra. Đồng thời, cần điều chỉnh một số khái niệm trong Luật Đa dạng sinh học, chẳng hạn xác định rõ “sinh vật biến đổi gen là sinh vật có cấu trúc di truyền bị thay đổi bằng công nghệ chuyển gen”.
Theo ông Phương, thế giới đang tiến rất nhanh trong lĩnh vực này, từ nghiên cứu, ứng dụng, đăng ký bản quyền đến quy định quản lý và thương mại hóa sản phẩm. Việt Nam có đầy đủ điều kiện để không bị bỏ lại phía sau, nhưng để làm được điều đó, cả công chúng, nhà quản lý và nhà hoạch định chính sách cần hiểu đúng bản chất của công nghệ chỉnh sửa gen, tránh nhầm lẫn với GMO, và có cách tiếp cận linh hoạt, phù hợp với thực tiễn phát triển nông nghiệp của đất nước.
Sự thiếu rõ ràng trong khung pháp lý đang là rào cản khó tiếp cận các công nghệ mới
TS. Michael Leader, thành viên Tổ Công tác Chỉnh sửa gen của CropLife châu Á cho hay, mất trung bình khoảng 16 năm để một sản phẩm biến đổi gen (GMO) ra được thị trường, trong đó hơn một nửa thời gian dành cho quy trình đăng ký, tiêu tốn hàng triệu USD.
Ông cho rằng, ngành giống cây trồng toàn cầu đang hướng tới một cách tiếp cận pháp lý nhất quán, linh hoạt và dựa trên cơ sở khoa học cho việc quản lý các công nghệ chọn tạo giống mới. “Nguyên tắc cốt lõi là, những giống cây được phát triển bằng phương pháp mới, nếu không phân biệt với các giống tạo ra bằng cách truyền thống, thì không nên bị quản lý khác biệt”, ông nói.
Theo chuyên gia CropLife, mục tiêu của các quốc gia là hướng tới sự hài hòa trong khung pháp lý, giúp người tiêu dùng hiểu rõ thành phần sản phẩm cuối cùng cũng như đảm bảo các yếu tố liên quan đến sức khỏe. Nhiều nước ở khu vực Mỹ Latinh đã áp dụng chính sách quản lý linh hoạt, thực tiễn với cây trồng chỉnh sửa gen, tập trung đánh giá đặc điểm phân tử để xác nhận không có DNA ngoại lai.
Ở châu Á - Thái Bình Dương, xu hướng tương tự đang diễn ra. Thái Lan tập trung nghiên cứu đậu tương, ngô, sắn và rau ăn lá. Indonesia và Philippines thì đánh giá dựa trên câu hỏi sản phẩm có chứa tổ hợp vật liệu di truyền mới trong kết quả cuối hay không - nếu không, sản phẩm được xem như thông thường.
“Thay vì tập trung vào công nghệ tạo ra sản phẩm, xu hướng hiện nay là xem xét sản phẩm cuối có khả năng lai chéo hay tái tổ hợp hay không”, ông Leader giải thích, nhấn mạnh rằng sự thiếu rõ ràng trong khung pháp lý đang là rào cản khiến nông dân và nhà khoa học công lập khó tiếp cận các công nghệ mới. Ngược lại, ở những nơi có chính sách minh bạch, các hoạt động nghiên cứu, phát triển và hợp tác thương mại đều tăng trưởng mạnh.
Theo TS. Leader, các dự án nghiên cứu chỉnh sửa gen đòi hỏi nguồn lực lớn, có thể lên tới hàng trăm triệu USD, do đó hợp tác quốc tế giữa các quốc gia và tổ chức là yếu tố then chốt. Hiện trên toàn cầu, khoảng 200 mục tiêu chỉnh sửa gen có ý nghĩa thương mại cao đang được triển khai, mở ra triển vọng lớn cho nông nghiệp hiện đại, nếu đi kèm với một khung pháp lý cập nhật và nhất quán.
Phát biểu tại Diễn đàn, Anh hùng Lao động Trần Mạnh Báo - Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Tập đoàn ThaiBinh Seed - cho biết: “Việc thiếu khung pháp lý rõ ràng đã ảnh hưởng đến quá trình triển khai và ứng dụng các công nghệ, giải pháp mới trong nông nghiệp. Điều này dẫn đến tình trạng các sản phẩm, công nghệ chưa được công nhận và áp dụng rộng rãi”.

Anh hùng Lao động Trần Mạnh Báo khẳng định, cần xây dựng khung pháp lý trước, sau đó mới phát triển hệ thống nghiên cứu và triển khai ứng dụng.
Ông Báo nêu vấn đề: Cơ quan nào giám sát, tham mưu để Bộ Nông nghiệp và Môi trường công nhận các khái niệm, các giống cây trồng, vật nuôi chỉnh sửa gen? Nguồn lực, kinh phí đầu tư và tạo hệ sinh thái pháp lý, thực tế gắn kết sẽ được cụ thể hóa thế nào?
Anh hùng Lao động Trần Mạnh Báo khẳng định, cần xây dựng khung pháp lý trước, sau đó mới phát triển hệ thống nghiên cứu và triển khai ứng dụng. Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý, nhà khoa học và doanh nghiệp để tạo hệ sinh thái hỗ trợ hiệu quả. Cuối cùng là đầu tư nguồn lực, kinh phí đầy đủ cho các hoạt động nghiên cứu, phát triển và triển khai các công cụ, công nghệ mới.
Chia sẻ thêm về câu chuyện nghiên cứu, TS. Trần Minh Thu, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Vinaseed thừa nhận, khía cạnh “khung pháp lý” rất quan trọng khi đưa các sản phẩm nông nghiệp ra thế giới, bên cạnh hợp tác công tư và đầu tư vốn.
Bà Thu lấy ví dụ, Công ty Bayer, với doanh thu hàng chục tỉ USD mỗi năm, luôn dành khoảng 5% để phục vụ cho nghiên cứu R&D. Hoặc nhiều doanh nghiệp Hoa Kỳ ưu tiên thời gian nghiên cứu giống mới đến hàng chục năm.
“Công nghệ sinh học là câu chuyện dài hơi, đòi hỏi nền tảng vững chắc ngay từ pháp lý”, bà Thu nhấn mạnh.
GS.TS. Lê Huy Hàm, nguyên Viện trưởng Viện Di truyền Nông nghiệp thì cho rằng, ở đâu đó trong xã hội vẫn còn có những ý kiến chưa đồng thuận, chưa hiểu rõ về chỉnh sửa gen. Vẫn có sự nhầm lẫn với đột biến gen.
“Báo chí có vai trò quan trọng để nâng cao nhận thức cho xã hội về vấn đề này. Chúng ta trước hết cần hiểu đúng”, ông Hàm nói và kêu gọi sự chung tay của nhiều hơn các cơ quan truyền thông.
Công nghệ chỉnh sửa gen được xem là một trong những đột phá quan trọng
Theo GS.TS. Lê Huy Hàm, Chủ nhiệm Chương trình Khoa học và Công nghệ cấp Quốc gia về Công nghệ sinh học - Trường Đại học Công nghệ, ĐHQGHN, công nghệ chỉnh sửa gen được xem là một trong những đột phá quan trọng nhất của thế kỷ XXI, mở ra hướng giải quyết hiệu quả cho nhiều vấn đề toàn cầu về y tế, môi trường và an ninh lương thực.
Từ năm 2012 đến nay, đã có hơn 17.000 bằng sáng chế được đăng ký trên thế giới (Trung Quốc 46%, Hoa Kỳ 40%,…), cho thấy các quốc gia phát triển đầu tư rất lớn vào lĩnh vực này. Nắm bắt xu thế này, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh vai trò chiến lược của công nghệ này. Đồng thời, Bộ Khoa học và Công nghệ đã trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đây là một trong 11 công nghệ chiến lược quốc gia trong thời gian tới.

GS.TS. Lê Huy Hàm, Chủ nhiệm Chương trình Khoa học và Công nghệ cấp Quốc gia về Công nghệ sinh học cho rằng, việc sớm ban hành khung pháp lý cụ thể sẽ giúp các nhà khoa học có cơ sở nghiên cứu, đánh giá và ứng dụng công nghệ chỉnh sửa gen hiệu quả, chính xác hơn.
GS.TS. Lê Huy Hàm khẳng định, bài học từ công nghệ biến đổi gen trước đây là kinh nghiệm quý giá cho quá trình xây dựng quy chế mới.
Theo ông, quá trình xây dựng quy chế quản lý sinh vật biến đổi gen trước đây kéo dài gần một thập kỷ, dưới sự chỉ đạo của nguyên Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT Cao Đức Phát, là bài học quý về việc ban hành chính sách dựa trên cơ sở khoa học và đánh giá rủi ro. Chính nền tảng đó đã giúp Việt Nam ứng dụng thành công giống ngô biến đổi gen, mang lại lợi ích kinh tế hàng trăm triệu USD cho nông dân
"Hiện nay, Cục Bảo tồn thiên nhiên và Đa dạng sinh học và các cơ quan đang thúc đẩy việc sửa đổi, làm rõ khái niệm về ‘biến đổi gen’. Trong đó, phân biệt rõ ranh giới pháp lý giữa sinh vật biến đổi gen (GMO) và sinh vật chỉnh sửa gen (GE) dựa trên bản chất của ADN sản phẩm cuối cùng. Việc sớm ban hành khung pháp lý cụ thể sẽ giúp các nhà khoa học có cơ sở nghiên cứu, đánh giá và ứng dụng công nghệ chỉnh sửa gen hiệu quả, chính xác hơn", ông Hàm chia sẻ.
Tuy nhiên, GS.TS. Hàm cũng lưu ý Việt Nam cần thận trọng trong bối cảnh quy định quốc tế về công nghệ này còn chưa thống nhất, đặc biệt với các loại cây trồng phục vụ xuất khẩu. Ông nhấn mạnh, cần lựa chọn, tập trung nghiên cứu những tính trạng mang giá trị kinh tế cao, đồng thời quan tâm đến vấn đề bản quyền, nhằm bảo vệ quyền lợi khi thương mại hóa sản phẩm chỉnh sửa gen ra thị trường quốc tế.
“Thời điểm vàng” hoàn thiện hành lang pháp lý cho công nghệ chỉnh sửa gen
Theo TS. Nguyễn Quý Dương, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, Việt Nam đã và đang tiếp cận công nghệ chỉnh sửa gen theo hướng quốc tế, song vướng mắc lớn nhất hiện nay nằm ở khung pháp lý chưa hoàn thiện. “Nghiên cứu khoa học chỉ thực sự có ý nghĩa khi có thể đưa kết quả vào sản xuất”, TS. Dương nhấn mạnh.
“Để làm được điều đó, các quy định pháp luật phải được điều chỉnh, bổ sung kịp thời. Trong đó, làm rõ các khái niệm: Đâu là chỉnh sửa gen và đâu là biến đổi gen, bởi đây là nền tảng để xác định cơ chế áp dụng phù hợp. Hiện Cục đang tham gia sửa đổi luật và tiến tới sửa đổi các nghị định, thông tư hướng dẫn. Quá trình này cần sự tham gia, đóng góp tích cực từ đội ngũ nhà khoa học, nhằm đảm bảo tính khả thi và đồng bộ”, lãnh đạo Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật cho biết.
Hiện nay, nước ta chưa có hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật cho giống chỉnh sửa gen. Khi giống mới được tạo ra mà không có quy định để đánh giá, kiểm định chất lượng, thì các sản phẩm đó vẫn chưa thể thương mại hóa. Vì vậy, Phó Cục trưởng Nguyễn Quý Dương đề nghị sớm xây dựng và ban hành bộ tiêu chuẩn về phương pháp thử, đồng thời chỉ định rõ các phòng thí nghiệm đạt chuẩn, tạo hành lang pháp lý đầy đủ trong ứng dụng công nghệ chỉnh sửa gen tại Việt Nam.
Tại Diễn đàn, bà Nguyễn Thị Kim Anh, Ủy viên chuyên trách Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, cho rằng đã đến lúc cần thể chế hóa khái niệm “chỉnh sửa gen” trong hệ thống pháp luật để tạo căn cứ quản lý rõ ràng, phù hợp với thực tiễn phát triển công nghệ hiện nay.
Bà cho biết, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang trình Quốc hội dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 15 luật liên quan đến nông nghiệp, trong đó có Luật Đa dạng sinh học. Dự thảo hiện mới chỉ có định nghĩa về “sinh vật biến đổi gen”, trong khi “chỉnh sửa gen” chưa được đề cập.
Theo bà Kim Anh, cần bổ sung rõ ràng khái niệm “chỉnh sửa gen” vào Luật Đa dạng sinh học, làm cơ sở để Chính phủ ban hành quy định chi tiết, phân định phạm vi, tiêu chí và quy trình quản lý. Việc này không chỉ giúp thống nhất cách hiểu giữa cơ quan lập pháp và hành pháp, mà còn bảo đảm cơ sở pháp lý cho công tác kiểm tra, giám sát và chuyển giao công nghệ.
Bà cũng đề nghị nghiên cứu bổ sung nội dung liên quan đến chỉnh sửa gen trong Luật Trồng trọt và Luật Chăn nuôi, đồng thời xem xét sự tương thích trong Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, nhằm hình thành một khung pháp lý đồng bộ, thống nhất và khả thi.
“Đây là thời điểm ‘vàng’ để luật hóa khái niệm chỉnh sửa gen, quy định rõ trách nhiệm của cơ quan quản lý, doanh nghiệp và người sử dụng, bảo đảm tính minh bạch và thuận lợi trong quản lý”, bà Kim Anh nêu rõ.
Tổng kết hai phiên tại Diễn đàn về khoa học công nghệ chỉnh sửa gen trong nông nghiệp, TS. Nguyễn Văn Long, Vụ trưởng Vụ Khoa học và Công nghệ (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), cho biết Bộ đang khẩn trương hoàn thiện hành lang pháp lý cho công nghệ mới này.

TS Nguyễn Văn Long, Vụ trưởng Vụ Khoa học và Công nghệ (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), cho biết, Bộ đang khẩn trương hoàn thiện hành lang pháp lý cho công nghệ chỉnh sửa gen này.
Ông Long cho hay, một trong những nhiệm vụ trọng tâm sắp tới là sớm phối hợp Cục Bảo tồn thiên nhiên và Đa dạng sinh học để làm rõ khái niệm giữa “chỉnh sửa gen” và “biến đổi gen”. Đây là bước quan trọng nhằm chuẩn bị nội dung chỉnh sửa, bổ sung Luật Đa dạng sinh học, trước khi trình lãnh đạo Bộ xem xét.
Hiện, Vụ Khoa học và Công nghệ được giao chủ trì soạn thảo Nghị định sửa đổi về sinh vật biến đổi gen (GMO), qua đó tạo nền tảng pháp lý vững chắc để quản lý, cấp phép và khuyến khích ứng dụng công nghệ chỉnh sửa gen trong nông nghiệp.
Theo ông Long, quá trình triển khai sẽ có sự phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị quản lý, viện nghiên cứu và doanh nghiệp để báo cáo lãnh đạo Bộ những khó khăn, vướng mắc còn tồn tại. Riêng về nguồn lực, Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị đã mở ra cơ chế, chính sách mới giúp “cởi trói” cho các nhà khoa học, tạo điều kiện để nghiên cứu, ứng dụng và thương mại hóa sản phẩm công nghệ cao.
“Chúng tôi mong các nhà khoa học và cơ quan truyền thông tiếp tục đồng hành để khoa học công nghệ trở thành mũi nhọn thực sự, góp phần quan trọng vào tăng trưởng và hiện đại hóa ngành nông nghiệp”, TS. Long nhấn mạnh./.
Thanh Tâm - KTNT
Số lần xem: 79












