Dendrobium là một trong hai giống lan cắt cành có quy mô lớn, chiếm 39,6%, chỉ sau giống Mokara với 44,8% do chúng dễ chăm sóc, tiêu thụ và phù hợp với điều kiện nhiệt đới như khu vực phía Nam (ĐNB, ĐBSCL, DHNTB). Song, sản lượng lan cũng chỉ mới đáp ứng khoảng 15% nhu cầu thị trường, còn lại đa số vẫn phải nhập khẩu. Những nghiên cứu trước đây về phân bón với Dendrobium mới dừng ở những nghiên cứu độc lập về ảnh hưởng của chất điều hòa sinh trưởng hay phân bón mà thiếu sự liên kết giữa chúng.
Chất hữu cơ trong đất là chất được hình thành do sự phân huỷ xác thực vật như thân, lá, rễ, v.v..., cơ thể vi sinh vật (VSV) và động vật đất. VSV phân giải chất hữu cơ tạo ra nhóm chất mùn không đặc trưng, chiếm 10-20% tổng số, gồm các hợp chất các bon, hidrocacbon, axit hữu cơ, rượu, este, anđehit, nhựa, ...
Lúa là cây lương thực ngắn ngày có giá trị kinh tế và xuất khẩu chính yếu trong nền sản xuất nông nghiệp Việt Nam. Vài thập kỷ gần đây, chế phẩm vi sinh vật nói chung và phân vi sinh vật nói riêng đã được người nông dân biết đến (Nguyễn Đường và Võ Xuân Thành, 1999). Hoạt động của bộ rễ lúa làm tiết ra một số chất hữu cơ có tác dụng thu hút vi sinh vật. Vi khuẩn dị dưỡng, vi khuẩn hảo khí không sinh bào tử và Azotobacter tập trung nhiều trên các rễ lúa còn non.
Để đáp ứng nhu cầu sản xuất cho các địa phương với nhu cầu lớn, chất lượng cây giống tốt và chuyển giao các biện pháp kỹ thuật tiên tiến để làm tăng năng suất, chất lượng hoa ngoài sản xuất. Yêu cầu cấp thiết phải có phương pháp trồng và chăm sóc không chỉ phù hợp với điều kiện khí hậu và canh tác của địa phương mà còn phải đem lại hiệu quả kinh tế cao, làm tăng thu nhập cho người trồng hoa.
Thông tin dinh dưỡng (TTDD) là thông tin để hỗ trợ các quyết định về việc sử dụng và tiếp thị phân bón, bằng cách phân tích hiệu quả của cây trồng và phân bón trong một vùng địa lý.
Đắk Lắk là vùng trồng cà phê lớn nhất của Việt Nam. Bên cạnh sản phẩm thu hoạch chính là hạt cà phê dùng cho chế biến cà phê bột và xuất khẩu thì vỏ cà phê là nguồn phụ phẩm nông nghiệp sẵn có với số lượng lớn chưa được khai thác sử dụng có hiệu quả
Nghề trồng rau và hoa đã có từ lâu đời ở Lâm Đồng nhờ điều kiện tự nhiên thuận lợi với hầu hết các chủng loại rau và hoa ôn đới phục vụ nội tiêu và xuất khẩu. Canh tác lâu dài với việc đầu tư phân bón, thuốc bảo vệ thực vật cao ở đây là những tác nhân có khả năng gây ô nhiễm môi trường đất và nguồn nước mặt, nước ngầm. Vì vậy, rất cần thiết nghiên cứu đánh giá để có cơ sở khoa học cho định hướng canh tác rau và hoa có năng suất, chất lượng cao nhưng không gây ảnh hưởng xấu tới chất lượng đất và các thành phần môi trường khác.
Đồng Nai được đánh giá là vùng có những thuận lợi vào bậc nhất trong cả nước về phát triển nông nghiệp hàng hóa toàn diện với các loại cây trồng phổ biến như cây ăn quả (bưởi, nhãn, chôm chôm, sầu riêng, cam, quýt...), cây lương thực (lúa, bắp), cây công nghiệp (tiêu, điều, cà phê, cao su...). Đầu tư phân bón là bắt buộc trong sản xuất nông nghiệp để đạt năng suất cao và duy trì độ phì nhiêu của đất. Thực tế việc sử dụng phân bón vẫn còn mất cân đối, dẫn đến năng suất và chất lượng nông sản chưa cao, hiệu quả sử dụng phân bón thấp.
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình 270C với tổng nhiệt độ cả năm khoảng 10.0000C, cùng với các yếu tố khí hậu khác như ánh nắng, gió, ẩm độ không khí, bức xạ mặt trời,... mang tính ổn định nên rất thuận lợi cho sản xuất cây ăn quả nhiệt đới như sầu riêng, chôm chôm, măng cụt, xoài, vú sữa, thanh long, khế, nhãn, bưởi, cam, quýt, chanh, dâu, bòn bon, khóm,...
Trên đa số các loại cây trồng ở ĐBSCL, nhất là rau màu, phân lân được sử dụng với liều lượng rất cao mà chưa chú ý đến đặc tính độ phì lân trong đất. Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Mỹ Hoa và Đặng Duy Minh (2006) cho thấy ở nhiều ruộng khảo sát trong vùng trồng rau chuyên canh của Tiền Giang, hàm lượng lân dễ tiêu (Bray 1) đạt rất cao (129-234 mg P/kg).
Hồ tiêu là cây công nghiệp lâu năm được trồng với mật độ dày 1.500-2.500 trụ/ha và là cây chịu thâm canh, nhưng lại rất nhạy cảm với sâu bệnh. Để đạt năng suất cao và có vườn tiêu khỏe cần phải bón đầy đủ và cân đối N-P-K-Phân hữu cơ. Các nguyên tố dinh dưỡng trung, vi lượng cũng cần thiết đối với năng suất và chất lượng hạt tiêu.
Giai đoạn 1990-2010 đã có một số nghiên cứu về phân bón cho chè, song chủ yếu tập trung vào phân bón vô cơ. Liều lượng và tỷ lệ dinh dưỡng bón cho chè phụ thuộc rất lớn vào giống, đất đai và điều kiện tự nhiên. Đồng thời sử dụng phân bón cũng không được để lại dư lượng nitrat quá cao, hàm lượng kim loại nặng phải dưới ngưỡng cho phép ... Từ năm 2005 đến nay, cùng với nghiên cứu bón phân hóa học, nghiên cứu sử dụng phân bón sinh học đã được quan tâm hơn.
Thực tế cho thấy phần lớn cây điều được trồng ở những vùng đất xấu: đất xám bạc màu, đất bị laterit hóa, đất cát ven biển, hơn nữa nông dân trồng điều thường nghèo nên việc bón phân chăm sóc và phòng trừ sâu bệnh cho cây điều không được đầu tư đúng mức.
Cà phê là cây trồng có nhu cầu dinh dưỡng cao, kết quả nghiên cứu của Viện KHKT Nông Lâm Nghiệp Tây Nguyên cho thấy tích lũy dinh dưỡng đa, trung lượng của cây cà phê vối cao nhất là đạm, tiếp đến là kali, canxi, magie, lân, lưu huỳnh. Trong một tấn cà phê nhân co chứa từ 35-40 kg N; 6-8 kg P2O5; 40-45 kg K2O.
Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) và Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là những vùng sản xuất nông nghiệp chính của cả nước, đặc biệt là sản xuất lúa. Tính chung cả hai vùng, diện tích trồng lúa chiếm khoảng 68% và sản lượng chiếm trên 70% so với cả nước, riêng ĐBSCL còn là nơi sản xuất 95% lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam. Theo Cẩm nang Sử dụng đất nông nghiệp (Bộ Nông nghiệp & PTNT, 2009) và số liệu của Tổng cục Thống kê (http://www.gso.gov.vn): Diện tích đất trồng lúa ở cả hai vùng giảm đi nhưng diện tích gieo trồng lại tăng lên do hệ số sử dụng đất tăng, từ 1,49 (năm 1990) lên 1,92 (2007). Năng suất lúa tăng từ 35,7 tạ/ha (1990) lên 55,3 tạ/ha (2011).
Phân bón có vai trò quan trọng trong tăng năng suất cây trồng. Tổng sản lượng nông sản tăng lên nhờ phân bón tại Việt Nam ước tính khoảng 35-40%, tại Trung Quốc khoảng 32% và trên toàn thế giới khoảng 50%. Đánh giá tổng quan hiệu quả sử dụng phân bón qua các thời kỳ để từ đó có thể định hướng nghiên cứu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đạt hiệu quả kinh tế cao, chất lượng nông sản tốt và an toàn môi trường.
Trong hơn 20 năm thời kỳ đổi mới, nông nghiệp Việt Nam đã có bước phát triển nhảy vọt, từ nền nông nghiệp tự cấp tự túc đã nhanh chóng chuyển thành nền nông nghiệp hàng hoá: hàng hoá đa dạng có năng suất, chất lượng nông sản ngày càng tăng
Bài viết giới thiệu một số phương pháp sản xuất, chế biến một số chủng loại phân bón hữu cơ có chất lượng cao, sử dụng nguyên liệu của địa phương do công ty Cổ phần Phân bón Bình Điền chủ trì và thực hiện. Với các loại rau ăn lá có thời gian sinh trưởng ngắn, sử dụng 20-30 tấn phân hữu cơ được chế biến cẩn thận đều có thể thay thế được phân hóa học ngay trong vụ đầu sản xuất trên nền đất xám những năm trước có sử dụng phân khoáng.
Để phục vụ cho công tác khuyến nông bài viết này đề cập đến một số nội dung liên quan đến cơ sở khoa học để phân loại phế phụ phẩm được sử dụng để làm phân bón hữu cơ. Nội dung của bài viết gồm có 5 phần chính, đó là: i) phế phụ phẩm từ ngành trồng trọt; ii) phế phụ phẩm từ ngành chăn nuôi; iii) phế phụ phẩm từ ngành thủy sản; iv) phế phụ phẩm từ sinh hoạt cộng đồng; v) nguyên tắc chung trong sử dụng phân bón hữu cơ.
Nồng độ khí nhà kính (CO2, CH4 và N2O và Halocarbons) đã tăng lên kể từ trước cách mạng công nghiệp do hoạt động của con người. Nồng độ CO2 trong khí quyển tăng từ 280 ppm vào năm 1750 lên 379 ppm năm 2005, và nồng độ N2O tăng từ 270 ppb đến 319 ppb trong cùng thời gian, còn khí CH4 trong năm 2005 rất nhiều, vào khoảng 1774 ppb, tăng hơn gấp đôi nồng độ của nó ở thời kỳ tiền công nghiệp là 750 ppb.
Tiểu môi trường xung quanh hạt phân lân hoặc trong dung dịch phân lân là đối tượng của rất nhiều phản ứng chính và phụ có thể xảy ra, ảnh hưởng mạnh đến lượng lân hữu hiệu. Tác động thúc đẩy hoặc làm chậm lại các phản ứng này là phương pháp hữu hiệu để nâng cao hiệu quả sử dụng phân lân ở dạng rắn cũng như dạng lỏng, cải thiện năng suất và hiệu quả kinh tế đồng thời có ảnh hưởng tích cực đến môi trường.
Đánh giá sự biến động của đất phèn giữa hai thời kỳ (TK) 1975 và 2005. Bản đồ đất mặn, đất phèn TK1975 được số hóa từ các bản đồ đất cũ (xây dựng vào những năm 70 của thế kỷtrước). Bản đồ đất mặn, đất phèn TK 2005 được xây dựng trong giai đoạn 2006 - 2009, bằng cách lấy mẫu bổ sung, chỉnh lý bản đồ đất TK1975. Phẫu diện đất được lấy theo hình “rẻ quạt”, lấy dày lên từ tâm ranh giới đất phèn ra phía ngoài ranh giới các loại đất khác.
Phân bón không chỉ có vài trò quan trọng đối với an toàn lương thực mà còn có ảnh hưởng đáng kể đến sức khỏe con người. Việc trao giải hòa bình năm 1970 cho tiến sĩ Norman Borlaug cho thấy thế giới đã ghi nhận mối liên kết khoa học nông nghiệp với sức khỏe cộng đồng. Tăng cường sử dụng phân bón cho cây trồng đã đẩy mạnh sản xuất trên một đơn vị diện tích, tăng nguồn cung cấp lượng thực cũng như góp phần vào cải thiện chất lượng thực phẩm như bổ sung các vi lượng thiết yếu (Tom W. Bruulsema et al., 2012 .
Việt Nam là một quốc gia nông nghiệp và về lâu dài vẫn dựa vào nông nghiệp, cho dù đóng góp của nông nghiệp (bao gồm cả nông, lâm, thủy sản) vào GDP chỉ khoảng 20%. Đối với chúng ta, nông nghiệp không chỉ là một ngành kinh tế quan trọng, cung cấp lương thực, thực phẩm, nguyên liệu cho công nghiệp mà còn là chỗ dựa vững chắc cho công nghiệp hóa, đảm bảo an sinh xã hội. Các đợt khủng khoảng kinh tế vừa qua càng cho thấy điều đó.
Công nghệ vi sinh đã đóng góp cho nền nông nghiệp thế giới những thành tựu to lớn, trở thành một trong những ngành mũi nhọn tham gia giải quyết các mục tiêu bảo vệ tài nguyên đất đai và nâng cao độ phì nhiêu, tăng năng suất cây trồng và chất lượng nông sản.
Phân bón VSV được sản xuất bằng cách phối trộn sinh khối VSV ở một mật độ nhất định vào chất mang vô trùng hoặc không vô trùng. Trong thời gian qua, nhiều cơ quan nghiên cứu, doanh nghiệp đã nghiên cứu và triển khai thành công các quy trình sản xuất phân VSV cố định nitơ, phân VSV phân giải lân, phân VSV hỗn hợp và phân VSV chức năng trên nền chất mang khử trùng hoặc không khử trùng.
Trong bối cảnh biến động chung của nền kinh tế, phân bón-loại vật tư thiết yếu phục vụ ngành trồng trọt luôn biến động về giá và nguồn cung đã tác động rất lớn đến sản xuất. Lợi dụng lúc giá phân bón biến động ở mức cao, một số doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh đã đưa ra thị trường nhiều loại phân bón kém chất lượng, phân bón giả gây thiệt hại cho người nông dân, làm ảnh hưởng tới sản xuất nông nghiệp và tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh của thị trường phân bón trong nước.
Theo dự báo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn thì nhu cầu phân bón của cả nước trong năm 2013 sẽ đạt mức 10,3 triệu tấn so với mức khoảng 9,6 triệu tấn năm 2012. Trong đó, urea 2,0 triệu tấn; SA 850 nghìn tấn; phân Kali 950 nghìn tấn; DAP 900 nghìn tấn; phân NPK 3,8 triệu tấn và phân lân các loại 1,825 triệu tấn.
Phân bón lá được sử dụng ở Việt Nam từ đầu những năm 1980 của thế kỷ trước, tuy nhiên phải đến năm 2000, thuật ngữ phân bón lá mới được chính thức đề cập trong các văn bản pháp qui của Nhà nước (Nghị định số 113/2003/NĐ-CP ngày 07/10/2003 và các thông tư, quyết định của Bộ Nông nghiệp và PTNT).












