Trồng trọt phát thải thấp: Bước chuyển hướng tới nền nông nghiệp bền vững

Ngày cập nhật: 27 tháng 11 2025
Chia sẻ

Chuyển đổi mô hình trồng trọt theo hướng phát thải thấp không chỉ là yêu cầu cấp bách mà còn là cơ hội để nâng cao giá trị gia tăng và uy tín của nông sản Việt trên thị trường quốc tế.

Doanh nghiệp, hiệp hội, hợp tác xã, nông dân cần tích cực thực hiện chuỗi liên kết sản xuất - tiêu thụ nông sản phát thải thấp, đầu tư đổi mới công nghệ, truy xuất nguồn gốc và tham gia xây dựng nhãn hiệu “Phát thải thấp” trở thành hạt nhân thúc đẩy chuyển đổi xanh của ngành Trồng trọt.

Nông nghiệp là ngành được Đảng, Nhà nước xác định là “lợi thế quốc gia”, là “trụ đỡ” của nền kinh tế. Thời gian qua, ngành này đạt được nhiều thành tựu nổi bật và đang dịch chuyển mạnh mẽ theo hướng xanh, hiện đại và bền vững. 

Tuy nhiên, ngành nông nghiệp cũng đối mặt với nhiều thách thức như biến đổi khí hậu, hạn hán, xâm nhập mặn…

Hoạt động trồng trọt hiện chiếm khoảng 80% tổng phát thải của ngành Nông nghiệp. Theo thống kê, mỗi năm lĩnh vực nông nghiệp phát thải hơn 116 triệu tấn CO2. Trong đó, chủ yếu đến từ canh tác lúa nước, chăn nuôi và sử dụng phân bón. Các khí chính bao gồm: CO2 từ đốt nhiên liệu, CH4 từ ruộng lúa và tiêu hóa dạ cỏ, N2O từ bón phân đạm và chất hữu cơ.

Cụ thể, trồng lúa nước phát thải 49,7 triệu tấn CO2 quy đổi (CO2e), chiếm 50%; chăn nuôi phát thải 18,5 triệu tấn CO2e, chiếm 19%; quản lý đất và sử dụng phân bón phát thải 13,2 triệu tấn CO2e, chiếm 13%.

Biến đổi khí hậu đang tác động sâu sắc đến mọi lĩnh vực đời sống, nông nghiệp vừa là nạn nhân, vừa là nguồn phát thải khí nhà kính đáng kể.

Bên cạnh đó, các thị trường tiêu thụ nông sản lớn trên thế giới ngày càng siết chặt các yêu cầu về phát thải carbon, chứng nhận bền vững, truy xuất nguồn gốc và bảo vệ môi trường. Nếu chậm triển khai các chương trình sản xuất giảm phát thải, nông sản Việt sẽ gặp bất lợi trong xuất khẩu, suy giảm khả năng cạnh tranh, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế sâu rộng và thực thi các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.

Theo PGS.TS Mai Văn Trịnh, Viện trưởng Viện Môi trường Nông nghiệp, phát thải khí nhà kính không chỉ ảnh hưởng đến môi trường mà còn trực tiếp chi phối đến năng suất, chất lượng và uy tín của nông sản Việt Nam trong thương mại quốc tế. Các đối tác lớn như EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ… đều đặt tiêu chuẩn carbon làm hàng rào kỹ thuật. Nếu không chủ động kiểm soát, nông nghiệp Việt Nam sẽ mất cơ hội trong chuỗi cung ứng toàn cầu.

Trồng trọt là lĩnh vực phát thải lớn nhưng cũng sở hữu tiềm năng giảm phát thải lớn nhất nếu được tổ chức và định hướng đúng đắn. Tuy nhiên, để đạt được điều đó, cần sự dẫn dắt thống nhất của cơ quan quản lý nhà nước thông qua một chương trình tổng thể, có tầm nhìn dài hạn, tích hợp đồng bộ các giải pháp về kỹ thuật, chính sách, tài chính, khoa học công nghệ, đào tạo, truyền thông và hợp tác quốc tế.

Nhằm cụ thể hóa cam kết của Việt Nam, trong đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC), thể hiện quyết tâm của ngành nông nghiệp trong việc đạt mục tiêu giảm phát thải 30% khí nhà kính vào năm 2030, hướng tới nền nông nghiệp xanh, tuần hoàn và có trách nhiệm với môi trường toàn cầu, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã công bố đề án “xanh hóa” lĩnh vực trồng trọt: kỳ vọng giảm phát thải 15% đến năm 2035.

Theo đó, đề án đặt mục tiêu đến năm 2035, lĩnh vực trồng trọt sẽ giảm ít nhất 15% lượng khí nhà kính so với năm cơ sở 2020. Tầm nhìn đến năm 2050, 100% diện tích cây trồng chủ lực sẽ áp dụng quy trình canh tác bền vững, sử dụng các gói kỹ thuật canh tác giảm phát thải, tăng khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu.

Để đạt mục tiêu đề ra, Đề án xác định 6 nhóm nhiệm vụ trọng tâm, bao gồm tái cơ cấu cây trồng theo vùng sinh thái và nhu cầu thị trường, áp dụng các gói kỹ thuật phát thải thấp, hoàn thiện hệ thống Đo lường – báo cáo – thẩm định (MRV), xây dựng mô hình sản xuất thực hành tốt, nâng cao năng lực và nhận thức cho các chủ thể tham gia và kết nối thị trường cho sản phẩm mang nhãn hiệu “Phát thải thấp”.

Đánh giá về dự án, Thứ trưởng Hoàng Trung nhấn mạnh, Đề án được ban hành đúng thời điểm, đáp ứng yêu cầu cấp thiết của ngành Trồng trọt trong bối cảnh biến đổi khí hậu và hội nhập quốc tế sâu rộng. Mục tiêu trọng tâm là vừa đảm bảo tăng trưởng năng suất, giá trị, vừa giảm phát thải khí nhà kính, hướng tới nền nông nghiệp xanh, tuần hoàn.

Hiện nay, các mô hình trồng trọt giảm phát thải được triển khai thí điểm tại các địa phương không chỉ đáp ứng tiêu chí về môi trường mà còn mang lại lợi ích kinh tế và xã hội đáng kể.

Theo đó, nhiều tỉnh, thành, các doanh nghiệp lớn đã và đang triển khai 1-2 mô hình phát thải thấp.

Mô hình canh tác lúa chất lượng cao, phát thải thấp đang được thu hoạch tại HTX Phú Nông Xanh (huyện Giang Thành, tỉnh Kiên Giang (cũ)).

Cụ thể là Đề án Phát triển bền vững 1 triệu hecta chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Đến nay, đã có 1.015.000 ha lúa thuộc 5 tỉnh, thành trong vùng đề án triển khai các mô hình canh tác lúa, góp phần giảm phát thải khí nhà kính với mức trung bình 2-12 tấn CO2/ha.

Công ty cổ phần Sữa Việt Nam (Vinamilk) đã có 3 đơn vị thành viên đạt chứng nhận quốc tế về trung hòa carbon. 100% trang trại và nhà máy của Vinamilk đã hoàn thành đo lường và kiểm kê phát thải carbon, đồng thời đẩy mạnh sử dụng năng lượng tái tạo, tối ưu hóa hoạt động liên quan để giảm phát thải trong toàn bộ quá trình vận chuyển, quản lý và phân phối sản phẩm.

Ông Lê Chí Thiện, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Đồng Tháp, cho biết, địa phương đã thực hiện 21 mô hình sản xuất lúa chất lượng cao giảm phát thải, giúp tiết kiệm 20-30% nước tưới, giảm 15% chi phí sản xuất và cắt giảm đáng kể lượng khí metan phát thải.

Nestlé đang hỗ trợ 21.000 hộ dân trồng cà phê giảm phát thải.

Đề án được kỳ vọng không chỉ góp phần giảm phát thải mà còn mở rộng cơ hội thị trường cho nông sản Việt Nam. Các sản phẩm có truy xuất nguồn gốc carbon và chứng nhận phát thải thấp sẽ dễ dàng tiếp cận các thị trường cao cấp như EU, Nhật Bản, Bắc Mỹ – nơi mức giá có thể cao hơn 10–25% so với sản phẩm thông thường.

Hệ thống canh tác giảm phát thải trong trồng trọt đang đối diện hàng loạt khó khăn. Kiến thức và nhận thức về giảm phát thải, đặc biệt là khí metan, vẫn còn hạn chế trong cả cộng đồng nông dân lẫn đội ngũ quản lý.

Một số mô hình điểm về trồng lúa giảm phát thải đã được triển khai, nhưng với các cây trồng cạn khác, nghiên cứu và giải pháp kỹ thuật còn rất ít. Hệ thống dữ liệu còn thiếu, chủ yếu dựa vào định tính. Cơ chế tài chính hỗ trợ chuyển đổi chưa rõ ràng, nông dân thiếu vốn, thiếu chính sách khuyến khích để thay đổi kỹ thuật…

Một trong những nguồn phát thải lớn nhất trong trồng trọt là khí metan (CH4) từ canh tác lúa nước - loại khí có khả năng gây nóng lên toàn cầu gấp 28 lần so với CO2. CH4 phát thải phụ thuộc vào nhiều yếu tố như chế độ tưới, loại đất, lượng hữu cơ bón vào và nhiệt độ môi trường. Khi tưới ngập liên tục, môi trường yếm khí khiến hữu cơ phân hủy mạnh, phát sinh khí CH4.

Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Hải Phòng Lương Thị Kiểm cho biết: Thành phố đã triển khai nhiều giải pháp giảm phát thải, trong đó nổi bật là mô hình chuyển đổi đất 2 vụ lúa sang 1 vụ lúa, 1 vụ cây vụ đông. Việc phủ rơm rạ cho cây trồng vụ đông giúp giữ ẩm và giảm phát thải khí nhà kính.

Ngoài ra, thành phố còn mở rộng quy mô tưới ngập khô xen kẽ - biện pháp giảm phát thải hiệu quả trong canh tác lúa. Nếu như trước đây chỉ áp dụng trên khoảng 1.000 ha/vụ, năm nay, Hải Phòng đặt mục tiêu tăng lên 4.000-5.000 ha. Theo đánh giá thực nghiệm, vụ xuân, nhờ thời tiết lạnh, dễ áp dụng, mức giảm phát thải đạt khoảng 4 tấn CO2/ha. Trong khi đó, vụ mùa khó hơn về kỹ thuật nhưng giúp giảm tới 6-7 tấn CO2/ha.

Tuy nhiên, quá trình triển khai vẫn gặp nhiều rào cản. Bà Kiểm cho biết, người dân đang được miễn phí thủy lợi phí nên khi rút nước khỏi ruộng là phản ứng ngay. “Họ chưa thấy ngay lợi ích lâu dài của tưới ngập khô xen kẽ”, bà Kiểm nêu. Do đó, bên cạnh hỗ trợ kỹ thuật, Hải Phòng kỳ vọng sẽ có cơ chế đào tạo nâng cao nhận thức người dân, đặc biệt là khi thị trường carbon chính thức đi vào hoạt động.

Tương tự, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Đồng Tháp Lê Chí Thiện cho biết, tỉnh đã triển khai 21 mô hình lúa chất lượng cao giảm phát thải, tiết kiệm nước, giảm chi phí và khí metan. Người dân tận dụng phụ phẩm làm phân hữu cơ, sản xuất biogas, hướng tới nông nghiệp tuần hoàn; hợp tác phát triển lúa sinh thái và chuyển đổi đất kém hiệu quả. Tuy nhiên, địa phương còn thiếu vốn, cơ chế khuyến khích doanh nghiệp và tập huấn, hướng dẫn kỹ thuật.

Là người trực tiếp chỉ đạo Dự án VnSAT (Dự án Chuyển đổi Nông nghiệp Bền vững tại Việt Nam), PGS.TS. Lê Quốc Doanh, Chủ tịch Hội Làm vườn Việt Nam, nguyên Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường), cho rằng, cần tạo dựng niềm tin chắc chắn cho người dân.

Theo đó, khi người dân tin vào hiệu quả của mô hình sản xuất bền vững, việc triển khai các nội dung kỹ thuật và thay đổi thói quen canh tác trở nên suôn sẻ hơn nhiều.

Vì vậy, ông Doanh đề xuất, trong giai đoạn sắp tới, truyền thông cần đi trước một bước, đóng vai trò là cầu nối giữa kỹ thuật và người sản xuất, góp phần định hình nhận thức về phát thải nông nghiệp và lợi ích của các mô hình canh tác bền vững. “Muốn người dân chuyển đổi tư duy, truyền thông phải tạo ra sự đồng thuận từ bên trong, không chỉ đơn thuần cung cấp thông tin”, ông nhấn mạnh.

Đồng quan điểm, nguyên Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) Cao Đức Phát nhấn mạnh, truyền thông phải giúp nông dân hiểu rõ và sẵn sàng thay đổi tập quán canh tác. Truyền thông không chỉ để tuyên truyền, mà còn là công cụ giúp người dân, doanh nghiệp và chính quyền cùng nhìn về một hướng, nhận thức đúng chính là nền tảng của mọi hành động.

Cùng với đó, Bộ Nông nghiệp và Môi trường nên đóng vai trò kiến tạo, xây dựng bộ công cụ, hướng dẫn kỹ thuật và cơ chế khuyến khích để địa phương, doanh nghiệp, nông dân có thể chủ động tham gia. Khi được trao quyền và có động lực rõ ràng, các địa phương sẽ phát huy tính sáng tạo, tạo ra những mô hình chuyển đổi phù hợp với điều kiện tự nhiên và xã hội của mình.

“Nguồn lực cho chuyển đổi có thể đến từ nhiều kênh khác nhau, nhưng quan trọng nhất và bền vững nhất vẫn là nông dân và doanh nghiệp - những người trực tiếp làm ra của cải. Khi họ nhìn thấy lợi ích, trồng trọt giảm phát thải sẽ không còn là khẩu hiệu, mà trở thành lựa chọn tự nhiên”, ông Phát nói.

Để trồng trọt giảm phát thải đi vào thực tiễn, ông Doanh khuyến nghị ưu tiên hàng đầu hiện nay là xây dựng và ban hành “gói kỹ thuật giảm phát thải” do Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật chủ trì. Đây là “xương sống” giúp các địa phương nhanh chóng áp dụng vào thực tiễn. Đây cũng là nền tảng quan trọng giúp các tỉnh, thành có thể nhanh chóng triển khai thực tế trên đồng ruộng.

Theo đó, gói kỹ thuật nên tập trung vào các nhóm cây trồng chủ lực, vừa giúp tạo tác động lớn, vừa thuận lợi trong việc nhân rộng. “Gói kỹ thuật cần kế thừa những kết quả đã được kiểm chứng trong các chương trình trước đây”, ông Doanh nói.

PGS.TS Lê Quốc Doanh (đứng giữa) thăm ruộng khảo nghiệm giống lúa mới của Thái Bình Seed tại xã Bắc Đông Hưng (Hưng Yên).

Một hướng đi cần được quan tâm nữa là mô hình nông, lâm kết hợp, vốn đã chứng minh tính hiệu quả tại khu vực Tây Bắc. Đây cũng là xu thế chung của thế giới trong nỗ lực giảm phát thải và bảo vệ hệ sinh thái nông nghiệp.

“Việc nhân rộng mô hình này không chỉ giúp giảm khí nhà kính mà còn cải thiện sinh kế, chống xói mòn đất và tăng khả năng hấp thụ carbon của rừng trồng. Đồng thời, khi triển khai các mô hình tại địa phương, cần lồng ghép hoạt động tập huấn và truyền thông ngay từ đầu, giúp nông dân hiểu, tin và sẵn sàng áp dụng”, ông Doanh nói.

Về sản xuất, các địa phương cần linh hoạt, không nên đặt giới hạn về số lượng cây trồng hay khu vực địa lý được áp dụng. Thay vào đó, cần phát huy tinh thần thích ứng tại chỗ, chọn các mô hình phù hợp với điều kiện địa phương, từ đó nhân rộng các mô hình thành công.

“Việc không cầu toàn cũng đồng nghĩa với việc không chờ đợi điều kiện lý tưởng, mà tận dụng ngay những gì đã có, tập trung vào chuyển giao, đào tạo và khuyến khích người dân áp dụng”, ông Doanh nhấn mạnh.

Chia sẻ về những giải pháp cụ thể nhằm bảo đảm Đề án được triển khai hiệu quả, TS. Nguyễn Thị Thanh Thủy, Trưởng ban Hợp tác quốc tế (Hội Làm vườn Việt Nam), cũng là đại diện Hiệp hội Ngành hàng Lúa gạo Việt Nam, cho rằng, cần ưu tiên các nhóm cây trồng chủ lực.

Theo bà Thủy, việc ưu tiên các nhóm cây trồng chủ lực sẽ giúp tập trung nguồn lực, tạo chuyển biến rõ rệt trong giai đoạn đầu thực hiện. Đồng thời đề xuất Đề án nên lồng ghép các hoạt động với Chương trình Phát triển bền vững 1 triệu hecta lúa chất lượng cao và phát thải thấp vùng Đồng bằng sông Cửu Long, nhằm tăng hiệu quả và tính liên kết trong tổ chức thực hiện.

Bên cạnh đó, các mô hình thí điểm sản xuất giảm phát thải nên được thiết kế theo đặc thù vùng sinh thái Bắc - Trung  - Nam, trong đó tập trung vào nhóm cây trồng chủ lực, để phát huy tối đa tiềm năng giảm phát thải và khả năng nhân rộng về sau.

Về khoa học và công nghệ, cần ưu tiên ứng dụng trí tuệ nhân tạo, cảm biến thông minh, nông nghiệp chính xác để quản lý nước, dinh dưỡng và giám sát phát thải; các sáng kiến như sản xuất than sinh học từ phụ phẩm, luân canh cây trồng hoặc đưa bèo hoa dâu vào hệ thống canh tác sẽ được khuyến khích để tăng hấp thụ carbon.

Về dữ liệu, hệ thống MRV và cơ sở dữ liệu phát thải sẽ được hoàn thiện, ứng dụng viễn thám, GIS và nền tảng số để giám sát trên diện rộng, bảo đảm kết nối với hệ thống kiểm kê quốc gia.

Liên quan đến vấn đề đồng bộ dữ liệu, Thứ trưởng Hoàng Trung cho biết, tới đây, sản xuất giảm phát thải trong nông nghiệp sẽ được triển khai theo nguyên tắc “rõ người, rõ việc, rõ thời gian, rõ sản phẩm, rõ địa bàn”.

Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật chủ trì, cập nhật vào đóng góp do quốc gia tự quyết định, phối hợp với địa phương lựa chọn mô hình phù hợp. Việc xây dựng hệ thống đo đạc - giám sát là phức tạp, nhưng đã giao cho các viện nghiên cứu đầu ngành chủ trì thực hiện. Sau khi có quy trình giám sát, sẽ triển khai mô hình trao đổi tín chỉ carbon và kết nối thị trường carbon.

Theo các chuyên gia, giảm phát thải trong trồng trọt chỉ thành công nếu tạo được động lực kinh tế đủ mạnh để nông dân tự nguyện tham gia. Do vậy, chính sách cần đi từ nhu cầu thực tế của người nông dân, nhất là về nguồn lực và chi phí đầu tư. Bởi vì, không có khung chính sách và nguồn vốn khởi động đủ mạnh, quá trình triển khai sẽ khó đạt hiệu quả như kỳ vọng.

Ông Phát đề xuất hai hướng để thực hiện mục tiêu đề ra.

Một là, chuyển đổi từ những cây trồng, hoạt động phát thải cao sang các cây trồng, hoạt động phát thải thấp.

Hai là, cần có đánh giá sâu hơn về tiềm năng giảm phát thải, tăng hấp thụ carbon để thông tin, hướng dân nông dân và doanh nghiệp thực hiện.

Tuy nhiên, nguồn lực về đất đai để mở rộng địa bàn sản xuất nông nghiệp gần như không còn. Trong khi đó, diện tích đất lúa đang giảm mạnh, kéo theo lao động nông nghiệp cũng giảm nhanh. Trong 10 năm qua, lao động nông nghiệp đã giảm 1 triệu người.

Ông Phát cho rằng, để quá trình chuyển đổi sang trồng trọt giảm phát thải đạt hiệu quả và bền vững, cần bổ sung nhiều nhóm giải pháp lớn.

Trước hết phải điều chỉnh cơ sở hạ tầng nông nghiệp nhằm đáp ứng yêu cầu mới của sản xuất xanh, đặc biệt là hệ thống thủy lợi cho cây lúa. “Muốn giảm phát thải, hệ thống thủy lợi phải được đầu tư đồng bộ, vì chỉ khi rút nước kịp thời mới có thể thực hiện được các kỹ thuật canh tác phát thải thấp”, ông nhấn mạnh.

Bên cạnh đó là kế hoạch huy động nguồn lực cho chuyển đổi trên phạm vi toàn quốc, bởi nếu chỉ trông chờ vào ngân sách thì khó có thể đi đường dài. Theo ông Phát, trong các nhóm nhiệm vụ trọng tâm của kế hoạch hành động, chính sách vẫn là yếu tố then chốt. Cần thống nhất quan điểm coi nông dân và doanh nghiệp là hai chủ thể trung tâm, vừa là người thực hiện, vừa là người hưởng lợi. Khi thấy được lợi ích cụ thể và được hỗ trợ tháo gỡ khó khăn, họ sẽ chủ động tham gia, đặc biệt trong việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật.

Ngoài ra, các tổ chức xã hội, viện nghiên cứu, trường đại học và cả người tiêu dùng cũng cần được lồng ghép trong hệ sinh thái phát triển nông nghiệp xanh, bởi chuyển đổi không chỉ diễn ra trên đồng ruộng mà còn trong toàn chuỗi giá trị.

Từ góc độ cơ cấu sản xuất, ông Phát cho rằng, hướng chính là chuyển từ cây phát thải cao sang cây phát thải thấp hoặc có khả năng hấp thụ carbon. Tuy nhiên, mọi sự chuyển đổi đều phải hướng đến mục tiêu lớn hơn là nâng cao thu nhập của người dân.

Cuối cùng là thị trường, ông Phát cho rằng, nếu chỉ dừng ở khâu kỹ thuật đầu vào mà chưa hình thành được thị trường cho nông sản carbon thấp hoặc tín chỉ carbon thì nỗ lực giảm phát thải sẽ khó bền.

Việt Nam cần làm mạnh hơn về thương mại hóa sản phẩm xanh, thu hút doanh nghiệp trong nước, FDI và các tổ chức quốc tế cùng tham gia để hình thành chuỗi giá trị mới. Ông dẫn chứng, năng suất và sản lượng nông sản của Việt Nam hiện đã vượt xa nhu cầu 100 triệu dân, do đó, “sản phẩm phải được bán với giá tốt, giúp người nông dân sống được bằng nghề thì mới gọi là thành công”.

Thanh Xuân - KTNT

Số lần xem: 32

Đơn vị thành viên
Liên kết đối tác

Viện Khoa Học Kỹ Thuật Nông Nghiệp Miền Nam
Địa chỉ: 121 Nguyễn Bỉnh Khiêm, P. Tân Định, TP.HCM
Điện thoại: 028. 38234076 –  38228371
Website : http://iasvn.org - Email: iasvn@vnn.vn