Đầu tư theo đối tác công tư (PPP): Thúc đẩy phát triển nông nghiệp bền vững

Ngày cập nhật: 26 tháng 11 2025
Chia sẻ

Trong chiến lược phát triển nông nghiệp đến năm 2030 và tầm nhìn 2045, Chính phủ đã đặt nông nghiệp làm động lực chính cho sự phát triển kinh tế, đồng thời coi phát triển nông nghiệp bền vững là mục tiêu chiến lược.

Để đạt được sự tăng trưởng ổn định và giá trị cao, cần đẩy nhanh việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, tổ chức sản xuất nông nghiệp thông qua các hình thức hợp tác, tổ chức liên kết có sự tham gia của khu vực tư nhân. Ngoài ra, đầu tư theo phương thức đối tác công tư PPP (Public - Private – Partnership = PPP) hiện nay cũng được xem là một trong các giải pháp hữu hiệu nhằm thu hút khu vực tư nhân tham gia đầu tư và góp phần phát triển nông nghiệp một cách bền vững. 

Đầu tư theo đối tác công tư PPP - Giải pháp nhân rộng mô hình canh tác lúa chất lượng cao, phát thải thấp tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

PPP trong phát triển nông nghiệp

Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Chuyển giao TBKT Nông nghiệp (Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam) Ngô Xuân Chinh cho biết, đầu tư theo hình thức đối tác công tư được thúc đẩy trở thành một cơ chế có thể giúp hiện đại hóa ngành nông nghiệp dựa trên việc huy động dòng vốn đầu tư và kiến thức, kỹ năng quản trị từ khu vực tư nhân để giúp khu vực công đổi mới theo định hướng phát triển bền vững và nâng cao hiệu quả. Nhiều chuyên gia nông nghiệp nhận định rằng, đầu tư theo hình thức PPP trong nông nghiệp là cần thiết vì xuất phát từ yêu cầu tăng hiệu quả đầu tư, đặc biệt là đầu tư công. Theo đó, với cùng một lượng vốn đầu tư của Nhà nước, có thể đầu tư được nhiều công trình hơn, hiệu quả đầu tư tăng hơn do có sự tham gia của khu vực tư nhân.

So với PPP ở các lĩnh vực khác, PPP trong nông nghiệp có một số đặc thù. Quy mô đầu tư PPP nông nghiệp thường thấp hơn so với các dự án PPP truyền thống và rủi ro có thể được phân bổ rất khác nhau giữa các đối tác theo các giai đoạn khác nhau của chu kỳ dự án. Ví dụ, trong lĩnh vực khoa học công nghệ nông nghiệp, đối tác công có thể chịu trách nhiệm về các rủi ro liên quan đến phát triển công nghệ mới trong suốt giai đoạn đầu của dự án, đối tác tư nhân sẽ chịu trách nhiệm thương mại hóa công nghệ khi công nghệ đã được phát triển. Trong lĩnh vực phát triển chuỗi giá trị, rủi ro thị trường thường thuộc về đối tác tư nhân chính vì họ chịu trách nhiệm đảm bảo thị trường đầu ra; trong khi đó, rủi ro sản xuất thường được chia sẻ với đối tác công để giảm bớt rủi ro cho nông dân. Chỉ định thầu cũng có thể được sử dụng cho các dự án PPP trong nông nghiệp, nhất là các dự án PPP trong khoa học công nghệ nông nghiệp vì có thể chỉ có một doanh nghiệp tư nhân có khả năng tiếp cận với một công nghệ, quy trình đặc biệt hoặc vật liệu di truyền nhất định để phát triển các sản phẩm mới.

Hình thức hợp tác PPP trong nông nghiệp nếu được thúc đẩy và thực hiện thành công sẽ giúp Nhà nước tăng nguồn lực đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn trong điều kiện ngân sách có hạn; góp phần nâng cao chất lượng đầu tư của ngành và chất lượng các dịch vụ kỹ thuật trong ngành; khuyến khích đổi mới cả về kỹ thuật và thể chế; cải tiến công tác quản lý tài nguyên thiên nhiên, các chuỗi cung ứng và các rủi ro sản xuất thương mại khác nhau; góp phần thay đổi cơ cấu nhanh chóng hơn ngay từ khâu sản xuất cũng như trong các chuỗi cung ứng; nâng cao hiệu quả sản xuất và kinh doanh của ngành nông nghiệp trong bối cảnh hội nhập. 

Theo kết quả nghiên cứu của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của Liên Hợp quốc (FAO), PPP thường được áp dụng trong phát triển chuỗi giá trị nông sản nhằm khôi phục các ngành hàng đang bị đình trệ hoặc nhằm thúc đẩy sự phát triển của các ngành hàng có nhiều tiềm năng, nâng cao khả năng tiếp cận thị trường trong nước và xuất khẩu (thông qua việc đạt được chứng nhận chất lượng trong chuỗi như: thực hành sản xuất tốt, sản phẩm hữu cơ, thương mại công bằng...). PPP cũng thường được sử dụng để thương mại hóa công nghệ mới nhằm nâng cao năng suất và khả năng tiếp cận thị trường. PPP có thể được áp dụng trong việc cung cấp các dịch vụ khuyến nông, trong xây dựng và vận hành các công trình cơ sở hạ tầng sản xuất và cơ sở hạ tầng thương mại. 

Trong phát triển hoạt động kinh doanh và cung cấp dịch vụ tư vấn, PPP thường được sử dụng để phát triển các hệ thống thông tin thị trường; cung cấp các khóa tập huấn về quản lý cho các nhằm nâng cao giá trị gia tăng; hỗ trợ các dịch vụ vườn ươm cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực chế biến nông sản. Đối với ngành nông nghiệp Việt Nam, hướng tới các mục tiêu chiến lược phát triển đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2035 đòi hỏi ngành phải huy động và sử dụng hiệu quả một lượng vốn đầu tư lớn từ nhà nước và toàn xã hội. 

Đặc biệt, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, gần đây chất lượng và tính bền vững chưa thực sự được đảm bảo, bộc lộ qua chất lượng nông sản pha tạp, kém ổn định; an toàn thực phẩm, giá trị gia tăng thấp; đổi mới về thể chế và công nghệ còn hạn chế. Tăng trưởng nông nghiệp ở mức độ nào đó đã phải trả giá về mặt môi trường, làm mất đi sự đa dạng về sinh học và suy thoái tài nguyên thiên nhiên. 

Áp dụng hiệu quả PPP 

Theo ông Ngô Xuân Chinh, ở Việt Nam, thực sự chưa có một mô hình nào trong nông nghiệp được công nhận là thực hiện theo đúng hình thức PPP. Tuy nhiên, trong thời gian qua trong nông nghiệp Việt Nam đã xuất hiện các hình thức hợp tác, trong đó khu vực tư nhân tham gia cùng khu vực nhà nước để đầu tư và cung cấp các hàng hóa, dịch vụ công ích. Điển hình như hình thức hợp tác giữa Công ty GENTRACO và Tập đoàn Lộc Trời với cơ quan nhà nước cấp địa phương trong việc cùng cung cấp các dịch vụ khuyến nông cho các hộ nông dân theo mô hình “cánh đồng liên kết” và “cánh đồng mẫu lớn” để phát triển sản xuất ngành lúa gạo theo hướng xuất khẩu. thuốc bảo vệ thực vật) với hỗ trợ từ nguồn ngân sách nhà nước. 

Khái niệm PPP mới bắt đầu chính thức được đề cập ở Việt Nam kể từ khi có Quyết định 71/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ (hiệu lực từ 15/01/2011) về thí điểm quy chế đầu tư theo hình thức đối tác công tư. Theo đó: “Đầu tư theo hình thức đối tác công - tư là việc Nhà nước và Nhà đầu tư cùng phối hợp thực hiện dự án phát triển kết cấu hạ tầng, cung cấp dịch vụ công trên cơ sở hợp đồng dự án". Tuy nhiên, chính sách này chỉ hướng tới lĩnh vực giao thông và xây dựng mà không đề cập cụ thể trong lĩnh vực nông nghiệp.

Trên thế giới, cơ chế PPP cũng mới chỉ được áp dụng cho nông nghiệp trong vài năm trở lại đây nhằm thúc đẩy sự tham gia của khu vực tư nhân vào phát triển ngành và vẫn còn khá mới mẻ ở nhiều quốc gia. 

Một điển hình khác là trường hợp của Viện nghiên cứu Cây ăn quả miền Nam (SOFRI) với ba dự án: Thứ nhất, từ nguồn vốn ngân sách nhà nước (cho loại hình nghiên cứu sản xuất thử nghiệm), Viện đã nghiên cứu và sản xuất thành công thuốc kháng ruồi cho cây ăn trái. Từ năm 2009, Viện ký hợp đồng thương mại hóa kháng ruồi với một công ty kinh doanh thuốc bảo vệ thực vật tại Tiền Giang với số lượng khoảng 50.000kg/năm (với giá khoảng 3.000 đồng/kg) để tiêu thụ tại thị trường trong nước, chủ yếu là khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Với nguồn thuốc nguyên liệu do Viện cung cấp, công ty này đóng chai, nhãn mác và thương mại hóa sản phẩm qua hệ thống phân phối của mình (với giá khoảng 17.000 - 18.000 đồng/kg). Với số tiền thu được từ thương mại hóa với doanh nghiệp, Viện đã hoàn trả được phần vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước và tiếp tục khai thác sản phẩm. 

Thứ hai, từ nguồn vốn ngân sách nhà nước, Viện đã nghiên cứu và lai tạo thành công một giống thanh long mới có năng suất và chất lượng cao hơn. Năm 2012, một doanh nghiệp tư nhân trong nước về sản xuất và xuất khẩu thanh long đã ký hợp đồng mua bản quyền sử dụng loại giống này trong vòng 20 năm với giá trị 2 tỷ đồng để sản xuất và xuất khẩu tới một số thị trường nhất định (châu Âu). SOFRI cũng cung cấp dịch vụ khuyến nông (về kỹ thuật sản xuất) cho các hộ nông dân trồng thanh long theo hợp đồng với doanh nghiệp này. 

Thứ ba, cùng là giống thanh long nhưng hợp tác với một doanh nghiệp tư nhân của NewZealand để nghiên cứu và phát triển một giống thanh long mới. Nếu thành công, hai đơn vị này sẽ chia sẻ quyền sử dụng loại giống mới này. Thông qua dự án này, SOFRI cũng nhận được các hỗ trợ về kỹ thuật và marketing từ đối tác tư nhân New Zealand. 

Ngoài ra, có Ban quản lý dự án 3PAD Bắc Kạn đã triển khai các mô hình trồng ớt và nuôi thỏ theo hình thức liên kết bốn nhà (nhà nước, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp, nhà nông). Cụ thể, Công ty cổ phần Stevia Ventures triển khai mô hình Trồng ớt Mỹ Nhân Vương xuất khẩu trên địa bàn 2 huyện Ba Bể và Na Rì với tổng diện tích trên 50 ha. Thời gian trồng kéo dài khoảng 6 tháng/vụ, năng suất dự kiến đạt từ 25 - 30 tấn/ha. Ký hợp đồng liên kết sản xuất ớt Mỹ Nhân Vương, người dân được Công ty Cổ phần Stevia Venture hỗ trợ toàn bộ cây giống, phân bón, nilon che phủ, thuốc bảo vệ thực vật. Ngoài ra, Công ty còn trực tiếp tập huấn kỹ thuật trồng chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh trong suốt quá trình canh tác. Sản phẩm được công ty thu mua toàn bộ với giá 5.000 đồng/kg. Đến thời điểm ớt chín, công ty thông báo ngày thu mua sản phẩm cho người dân, tổ chức thu mua theo kế hoạch, trong đó địa điểm thu mua được bố trí gần vùng sản xuất, thuận tiện cho xe ô tô vào thu mua và cho việc vận chuyển tập kết hàng hóa. Sau 15 ngày thu mua người dân được thanh toán đầy đủ. 

Trong khi đó, Công ty Cổ phần Thương mại và sản xuất thực phẩm Hà Nội triển khai dự án chăn nuôi thỏ nông hộ tại Ba Bể, Pác Nặm. Dự án có tổng được hướng dẫn kĩ thuật chăm sóc thỏ và được Công ty Cổ phần Thương mại thực phẩm Hà Nội bao tiêu toàn bộ sản phẩm để cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến thực phẩm và tinh chế dược liệu. 

Các hình thức hợp tác sản xuất có sự tham gia doanh nghiệp, nhà nước và người dân phối hợp cùng thực hiện trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn đã thu được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Sản lượng sản xuất tăng từ 2 - 3 lần, thu nhập của người dân tăng 10 - 15%. 

Đáng chú ý là, sau khi hợp tác, nông dân đã thay đổi cách thức, tập quán canh tác truyền thống theo mô hình sản xuất hiện đại hơn với hiệu quả cao hơn. 

Tuy nhiên, dù đã được triển khai trong thực tế thời gian qua dưới nhiều hình thức khác nhau nhưng do đặc thù sản xuất của ngành nông nghiệp luôn ở mức độ rủi ro cao và khả năng thu hồi vốn chậm nên hình thức này vẫn chưa được triển khai rộng rãi và hiệu quảdo cơ chế chính sách chưa rõ ràng và còn chồng chéo, thủ tục hành chính rườm rà, phức tạp. 

Cần các cơ chế chính sách rõ ràng

Hiện nay, các dự án PPP nông nghiệp đang trong các giai đoạn xây dựng đề xuất triển khai và có nhiều doanh nghiệp cam kết tham gia. Đồng thời, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã có nhiều động thái tích cực nhằm thúc đẩy PPP trong các ngành hàng chủ lực, đặc biệt đang quan tâm đến phát triển chuỗi giá trị. 

Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã quyết tâm thúc đẩy PPP trong nông nghiệp thông qua việc thành lập và vận hành Nhóm công tác Đối tác phát triển bền vững nông nghiệp. Nhiều công ty đa quốc gia trong lĩnh vực nông nghiệp đang dành sự quan tâm đặc biệt cho hình thức đầu tư PPP để sản xuất và thúc đẩy kinh doanh một số mặt hàng nông sản chính tại Việt Nam. 

Trong khuôn khổ sáng kiến “tầm nhìn mới trong nông nghiệp” của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF), 15 doanh nghiệp nông nghiệp quốc tế đang hợp tác với Bộ Nông nghiệp và Môi trường để nhằm nâng cao sản lượng, chất lượng và khả 1 dịch vụ hỗ trợ), bao gồm: cà phê, thủy sản, rau quả, chè, nhóm hàng hóa chung (đậu tương, ngô), và nhóm tài chính vi mô. Các lĩnh vực hoạt động của các nhóm này khá rộng, từ thử nghiệm về tiến bộ kỹ thuật đến thử nghiệm về tổ chức tín dụng, sản xuất, tiêu thụ... Kết quả bước đầu của triển khai thử nghiệm đã đạt được kết quả thành công đáng khích lệ. Nhiều doanh nghiệp đã hỗ trợ tích cực cho nông dân về vốn và kỹ thuật để đẩy mạnh sản xuất nông sản sạch. 

Trong hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng của toàn ngành kinh tế nói chung và của ngành Nông nghiệp nói riêng, bên cạnh vai trò điều hành của Chính phủ, vai trò chủ lực của người sản xuất, cần phải có sự đồng hành quyết định của doanh nghiệp. Doanh nghiệp là tác nhân năng động nhất trong chuỗi giá trị các ngành hàng nông nghiệp và cũng chỉ có chủ thể này mới hội đủ các điều kiện để giải quyết 3 điểm nghẽn lớn nhất của nông nghiệp Việt Nam hiện nay. Đó là nguồn vốn cho đầu tư sản xuất, kết nối thị trường tiêu thụ hàng hóa nông sản và ứng dụng khoa học công nghệ nâng cao giá trị gia tăng và năng lực cạnh tranh cho nông sản. 

Thúc đẩy phát triển nông nghiệp, doanh nghiệp phải đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ cao với chi phí lớn. Đây là một bài toán khó và gây áp lực cho doanh nghiệp khi tham gia. 

Để thu hút đầu tư của khu vực tư nhân vào phát triển nông nghiệp, ông Ngô Xuân Chinh đưa ra các giải pháp sau: 

Chính phủ và Bộ Nông nghiệp và Môi trường cần có chính sách phát huy vai trò của Nhà nước, doanh nghiệp, hợp tác xã, người nông dân bằng việc tạo môi trường thuận lợi thu hút đầu tư. Nhà nước trực tiếp quản lý, thiết lập các quy chuẩn. Ngoài ra, nhà nước công khai quy hoạch và chính sách trực tiếp đến doanh nghiệp và người dân. Chính quyền địa phương ở những khu vực có dự án đầu tư theo PPP cần phối hợp chặt chẽ với doanh nghiệp trong quá trình triển khai, vận động người dân tham gia và ủng hộ doanh nghiệp. Đồng thời, doanh nghiệp tạo điều kiện về việc làm cho lao động ở địa phương thông qua việc đào tạo nghề. Doanh nghiệp và nông dân có cam kết cụ thể bằng văn bản, và dưới sự bảo hộ của cơ quan quản lý. 

Tiếp tục hoàn thiện các chính sách tham gia đầu tư, không phân biệt đối xử giữa các khu vực công và tư; có chính sách ưu đãi về đất đai, hỗ trợ thuế và tín dụng đủ mạnh để thu hút đầu tư; tiếp tục đầu tư phát triển cơ sơ hạ tầng đầu mối; đầu tư cho nghiên cứu và phát triển, hỗ trợ khoa học công nghệ cho doanh nghiệp; xây dựng quy định về quản lý chất lượng với hàng hóa nông sản; hỗ trợ phát triển thị trường; phát triển thương hiệu quốc gia; tìm đầu ra cho sản phẩm nông nghiệp chất lượng cao. Các chính sách này phải tạo được môi trường pháp lý minh bạch, đủ rộng tạo động lực để các nhà đầu tư tư nhân tham gia đầu tư, đồng thời giúp họ có thể giảm thiểu tối đa những rủi ro liên quan đến đầu tư. Hơn nữa, Nhà nước cần cung cấp thông tin cụ thể, minh bạch để doanh nghiệp có thể nhanh chóng tiếp cận được những hỗ trợ và ưu đãi. 

Cần sớm ban hành nghị định trong lĩnh vực nông nghiệp làm cơ sở cho việc thực hiện các dự án PPP nông nghiệp. Văn bản hướng dẫn PPP nông nghiệp cần nhấn mạnh những đặc thù của các dự án PPP trong nông nghiệp so với các dự án PPP trong các lĩnh vực khác, đồng thời cung cấp các hướng dẫn về lập kế hoạch và thực hiện dự án ở cả cấp quốc gia và địa phương. Trong văn bản này, PPP nông nghiệp phải bao hàm được đầy đủ và chi tiết về lĩnh vực đầu tư, dự án đầu tư. Ngoài ra, để thúc đẩy các dự án PPP phát triển chuỗi giá trị trong nông nghiệp được triển khai thuận lợi, hiệu quả, thì văn bản này phải hướng dẫn cụ thể đối với trường hợp nhiều doanh nghiệp cùng tham gia để thành lập một doanh nghiệp dự án. 

Nghiên cứu thành lập cơ quan quản lý có liên quan. Đẩy mạnh cải cách hành chính, chuẩn bị sẵn các điều kiện cần thiết trước khi mời gọi nhà đầu tư cho từng dự án cụ thể như: điều kiện đầu tư, các chính sách ưu đãi về thuế, đất đai và lập báo cáo nghiên cứu khả thi, hợp đồng PPP để thu hút các nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào nông nghiệp. 

Để thúc đẩy hình thức PPP, khuyến khích đầu tư tư nhân vào lĩnh vực phát triển nông nghiệp, thời gian tới, rất cần các cơ chế chính sách của Nhà nước trong việc phân định rõ ràng trách nhiệm và quyền lợi của các bên tham gia, tạo sân chơi cạnh tranh và bình đẳng trong đầu tư phát triển nông nghiệp giữa nhà nước và doanh nghiệp. 

Đánh giá về hợp tác công tư (PPP) trong thúc đẩy chuyển đổi sản xuất lúa gạo, ông Robert Caudwell - Trưởng đại diện Viện Nghiên cứu Lúa gạo Quốc tế (IRRI) Việt Nam đã chỉ ra ba "nút thắt" lớn đang kìm hãm sự phát triển bền vững:

Thứ nhất là rào cản trong tiếp nhận và nhân rộng công nghệ do chi phí cao và thiếu hỗ trợ kỹ thuật. 

Thứ hai là hạn chế về năng lực và kiến thức, đòi hỏi hệ thống khuyến nông phải cải tiến mạnh mẽ để nâng cao hiệu quả đào tạo. 

Thứ ba là sự thiếu hụt trong liên kết thị trường, làm suy giảm động lực sản xuất của người nông dân.

Chanh - KTNT

Số lần xem: 37

Đơn vị thành viên
Liên kết đối tác

Viện Khoa Học Kỹ Thuật Nông Nghiệp Miền Nam
Địa chỉ: 121 Nguyễn Bỉnh Khiêm, P. Tân Định, TP.HCM
Điện thoại: 028. 38234076 –  38228371
Website : http://iasvn.org - Email: iasvn@vnn.vn