Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  29
 Số lượt truy cập :  35428607
Lựa chọn điểm đến của nghiên cứu sinh Việt Nam: Những động cơ chi phối
Thứ năm, 01-08-2024 | 08:33:06

 

Có nhiều động cơ phức tạp trong quyết định chọn nơi du học của các nghiên cứu sinh Việt Nam, bởi vậy các sáng kiến đào tạo tiến sĩ ở nước ngoài cần cân nhắc kỹ lưỡng các động cơ này để việc triển khai thực sự hiệu quả.

 

Động cơ phức tạp

Hoàn cảnh gia đình, kế hoạch tài chính, những bận tâm thực tế như ngoại ngữ hay môi trường phát triển, ảnh hưởng từ bạn bè và đồng nghiệp, và trải nghiệm quốc tế trước đó, là những yếu tố tác động đến việc nghiên cứu sinh Việt Nam chọn du học ở đâu. Đó là những phát hiện từ bài báo “The why of where: Vietnamese doctoral students’ choice of PhD destinations” xuất bản năm 2023 của tác giả Anh Ngoc Quynh Phan, hiện đang công tác tại Khoa Giáo dục và Công tác Xã hội, Đại học Auckland (New Zealand), trên tạp chí Studies in Continuing Education (Scopus Q1, CiteScore 4.7).

Thời gian qua, đào tạo tiến sĩ ở Việt Nam dù đã đạt những cột mốc đáng kể nhưng vẫn còn phải đối mặt với nhiều thử thách. Trong khi quy mô giáo dục đại học liên tục được mở rộng, với số lượng tuyển sinh đại học tăng trưởng đều đặn, tuyển sinh và đào tạo bậc sau đại học, đặc biệt là ở cấp độ tiến sĩ, không ổn định. Số nghiên cứu sinh có chiều hướng tăng từ năm 2013 đến năm 2019, nhưng từ năm 2020 đến nay có chiều hướng giảm mạnh, với tỷ lệ giảm bình quân trong cả giai đoạn là 5%1. Chính phủ đã có các chính sách, chiến lược nhằm khuyến khích nghiên cứu sinh du học nước ngoài, bên cạnh thúc đẩy đào tạo trong nước, để nâng cao chuyên môn. Đến năm 2017, số lượng nghiên cứu sinh ở nước ngoài đã tăng lên hơn 2.3002. Các chính sách đáng kể như Đề án 322, Đề án 911 và gần đây là Đề án 89 được thiết kế để hỗ trợ tài chính cho dự kiến hàng nghìn giảng viên đại học lấy bằng tiến sĩ ở nước ngoài3. Tuy nhiên, dù có những khởi sắc, hiệu quả của các chính sách này được đánh giá là không như mong đợi2, 4, 5.

Nhiều sinh viên Việt Nam nhận thấy các chương trình tiến sĩ nước ngoài, đặc biệt là ở các nước phát triển, mang lại nền giáo dục chất lượng cao hơn và bằng cấp uy tín hơn. Học tập ở nước ngoài thường mang lại cơ hội tiếp cận các cơ sở nghiên cứu tiên tiến và cơ hội hợp tác quốc tế, điều vốn có thể bị hạn chế ở các tổ chức trong nước. Hơn nữa, bằng tiến sĩ từ một tổ chức nước ngoài có uy tín thường được coi là lợi thế đáng kể trong thị trường việc làm học thuật cạnh tranh ở Việt Nam. Trong bối cảnh các chương trình đào tạo tiến sĩ của nước ngoài ngày càng được quan tâm, nghiên cứu của tác giả Anh Ngoc Quynh Phan đã góp phần khám phá các nhân tố thúc đẩy quyết định của nghiên cứu sinh trong việc lựa chọn quốc gia làm điểm đến cho hành trình học thuật của mình thông qua một khung lý thuyết mới.
 
Ảnh minh họa: CC.
Ảnh minh họa: CC.

Nghiên cứu là một phần của cuộc điều tra lớn hơn về các nghiên cứu sinh người Việt ở nước ngoài, với dữ liệu được thu thập qua ba giai đoạn: trước khi khởi hành, trong, và sau thời gian làm nghiên cứu sinh ở nước ngoài. Đã có 19 nghiên cứu sinh tham gia vào các buổi phỏng vấn sâu trực tiếp hay trực tuyến do khoảng cách địa lý giữa tác giả và người tham gia phỏng vấn. Nội dung phỏng vấn tập trung vào các khía cạnh như học vấn, bối cảnh gia đình, chuyên môn, động lực du học, các lựa chọn ban đầu cho các quốc gia để theo học tiến sĩ, và những lý do cụ thể cho lựa chọn cuối cùng của họ. Phương pháp phân tích chủ đề (thematic analysis) được sử dụng để xử lý dữ liệu.

Nghiên cứu đã làm sáng tỏ yếu tố gia đình ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc lựa chọn điểm đến của các nghiên cứu sinh Việt Nam. Theo kết quả phỏng vấn, đa số các nghiên cứu sinh đều đã lập gia đình và sẽ đưa vợ/chồng cùng con cái đến quốc gia họ chọn. Chính điều này đã khiến các yếu tố gia đình trở thành mối băn khoăn hàng đầu của người tham gia phỏng vấn, bao gồm cơ hội việc làm cho đối phương, cơ hội giáo dục cho con cái, cũng như môi trường sống. Một số trường hợp còn cho thấy các nghiên cứu sinh bỏ qua sự cân nhắc các yếu tố khác vì vợ/chồng hay thành viên khác trong gia đình của họ đang sinh sống ở quốc gia ấy, nhấn mạnh tầm quan trọng của yếu tố gia đình trong quyết định của nghiên cứu sinh.

Khả năng tiếp cận học bổng và các gói hỗ trợ tài chính cũng tác động đáng kể đến lựa chọn của các nghiên cứu sinh, hướng họ đến các quốc gia có các mức hỗ trợ tài chính hào phóng hơn. Phỏng vấn chỉ ra rằng, một số nghiên cứu sinh có nguyện vọng ban đầu ở một quốc gia khác, nhưng sau khi cân nhắc khả năng chi trả cho việc học tập/sinh hoạt, hay sự canh trạnh của các học bổng, họ đã chọn điểm đến khác với nguyện vọng ban đầu.

Bên cạnh đó, những cân nhắc thiết thực hơn, bao gồm ngôn ngữ, điều kiện thời tiết, và lối sống, đều quan trọng trong quá trình ra quyết định của nghiên cứu sinh. Ngoài một trường hợp nghiên cứu sinh đã học ở Trung Quốc ở các bậc học trước, toàn bộ người tham gia phỏng vấn đều nêu rõ mối quan tâm của họ đối với ngôn ngữ ở quốc gia mình đến. Mối quan tâm không chỉ cho riêng họ mà còn cho vợ/chồng và con cái khi làm việc, học tập. Điều này đã khiến các nghiên cứu sinh đều đưa các quốc gia nói tiếng Anh làm lựa chọn hàng đầu cho mình, khi các quốc gia không dùng tiếng Anh có thể gây khó khăn hơn cho bản thân nghiên cứu sinh và gia đình họ. Ngoài ra, thời tiết và lối sống của quốc gia điểm đến tuy không ảnh hưởng mạnh mẽ đến lựa chọn của nghiên cứu sinh nhưng cũng góp phần tác động đến quyết định của họ.

Cuối cùng, nghiên cứu nhấn mạnh mạng lưới quan hệ trực tiếp với đồng nghiệp và bạn bè đã từng du học đóng vai trò là nguồn thông tin và cảm hứng quan trọng, thường định hình nhận thức của sinh viên về các quốc gia tiềm năng. Một số trường hợp cho thấy nghiên cứu sinh chọn một điểm đến chỉ nhờ những phản hồi tích cực của người đi trước gần gũi với họ.

Một phát hiện thú vị khác là kinh nghiệm di chuyển trước đó của các nghiên cứu sinh, dù là để học tập hay làm việc, cũng ảnh hưởng đến lựa chọn của họ theo những cách khác nhau. Một số tìm kiếm môi trường quen thuộc, muốn quay trở lại những quốc gia họ đã từng học tập; trong khi những người khác mong muốn tìm kiếm trải nghiệm mới ở các quốc gia khác để mở mang tầm nhìn.

Để triển khai hiệu quả các sáng kiến đào tạo tiến sĩ ở nước ngoài

Nghiên cứu của tác giả Anh Ngoc Quynh Phan sử dụng khung lý thuyết Tưởng tượng và Khát vọng (Imagination and Aspiration) của A. Appadurai để phân tích cách nghiên cứu sinh Việt Nam định hướng hướng “bản đồ khát vọng” của họ khi chọn điểm đến du học. Khung lý thuyết này được giới thiệu như một cách tiếp cận mới để phân tích khía cạnh văn hóa của hiện tượng toàn cầu hóa6. Sự tưởng tượng của một cá nhân về khả năng bản thân hay con cái của họ sinh sống, làm việc, học tập ở một quốc gia khác trở thành một yếu tố quan trọng định hình cách suy nghĩ của họ về thế giới, ảnh hưởng đến cách mỗi người đối phó và ra quyết định. Bên cạnh tưởng tượng, khát vọng là một cấu phần khác khiến mọi người khác biệt với nhau về cách họ khám phá tương lai của mình. Trong nghiên cứu của tác giả Anh Ngoc Quynh Phan, cách tiếp cận này cho thấy nghiên cứu sinh không đơn giản bị đẩy hoặc hút bởi các yếu tố bên ngoài mà chủ động cân nhắc các lựa chọn dựa trên nhiều “nút khát vọng - aspirational nodes” trong hoàn cảnh xã hội và cá nhân của họ. Tác giả giải thích: “Bằng cách sử dụng Tưởng tượng và Khát vọng làm khung khái niệm, chúng ta có thể hiểu sâu sắc hơn về cách các sinh viên đưa ra quyết định. Không chỉ là về các yếu tố kinh tế hay uy tín học thuật; mà còn về cách họ tưởng tượng cuộc sống và sự nghiệp tương lai của mình trong những bối cảnh khác nhau.”

Trước tình trạng tuyển sinh tiến sĩ trong nước ngày càng giảm1 và xu hướng sinh viên Việt Nam theo học tiến sĩ ở nước ngoài ngày càng tăng2, nghiên cứu đã cung cấp những hiểu biết quan trọng cho các nhà hoạch định chính sách, nhà giáo dục và các tổ chức ở Việt Nam, nhấn mạnh sự cần thiết phải có một tiếp cận đa diện để giải quyết các thách thức đối với việc đào tạo tiến sĩ. Cụ thể, các sáng kiến ​​của chính phủ như Đề án 322, 911 và 89 cần cân nhắc kỹ lưỡng các động cơ phức tạp của nghiên cứu sinh để việc triển khai thực sự hiệu quả.

Nghiên cứu còn mở ra một số hướng cho các nghiên cứu trong tương lai, bao gồm các nghiên cứu so sánh giữa nghiên cứu sinh và các nhóm khác như học viên cao học và sinh viên đại học, điều tra về các nút khát vọng khác nhau giữa các nhóm sinh viên thuộc các quốc gia khác nhau, và các nghiên cứu tiếp theo về trải nghiệm sống của nghiên cứu sinh tại các điểm đến họ đã chọn. Như tác giả Anh Ngoc Quynh Phan kết luận: “Nghiên cứu này nhấn mạnh tính phức tạp của hiện tượng di động sinh viên quốc tế. Điều quan trọng là chúng ta phải tiếp tục khám phá các quá trình ra quyết định để hỗ trợ sinh viên tốt hơn và nâng cao chất lượng giáo dục quốc tế.”


Tài liệu tham khảo

[1] Nhật Hồng, “Số lượng thạc sĩ, tiến sĩ của Việt Nam quá thấp, chưa bằng 1/3 các nước trong khu vực,” Đại Biểu Nhân Dân, 10/10/2023. [Online]. Tại: https://daibieunhandan.vn/giao-duc–y-te1/so-luong-thac-si-tien-si-cua-viet-nam-qua-thap-chua-bang-1-3-cac-nuoc-trong-khu-vuc-i345914/

[2] A. N. Q. Phan, “Why overseas? Vietnamese doctoral students’ motivations for a doctoral study abroad,” Journal of Adult and Continuing Education, số 29, quyển 1, tr. 5-24, 2023. doi: 10.1177/14779714221105912.

[3] Mạc Doanh, “Những đề án nghìn tỷ về đào tạo tiến sĩ,” Dân trí, 17/05/2021. [Online]. Tại: https://dantri.com.vn/giao-duc/nhung-de-an-nghin-ty-ve-dao-tao-tien-si-20210517131455610.htm

[4] Ngọc Mai, “Không nhiều GV chọn học tiến sĩ theo Đề án 89 dù được hỗ trợ 13-20 triệu/năm,” Giáo dục Việt Nam, 16/07/2023. [Online]. Tại: https://giaoduc.net.vn/khong-nhieu-gv-chon-hoc-tien-si-theo-de-an-89-du-duoc-ho-tro-13-20-trieunam-post236567.gd

[5] Vĩnh Hà & Hải Hà, “Đoạn kết buồn của Đề án 322,” VietnamNet, 19/05/2012. [Online]. Tại: https://vietnamnet.vn/doan-ket-buon-cua-de-an-322-72895.html

[6] A. Appadurai, Modernity at Large: Cultural Dimensions of Globalization. Minneapolis, MN: University of Minnesota Press, 1996.
 
Trở lại      In      Số lần xem: 240

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Hơn 120 quốc gia ký kết Hiệp ước Paris về biến đổi khí hậu
  • Một số giống đậu tương mới và mô hình chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất lúa tại Đông Nam Bộ và Đồng Bằng Sông Cửu Long
  • Các nước cam kết chống biến đổi khí hậu
  • 12 giống hoa được công nhận bản quyền
  • Thảo luận việc quản lý nước theo cơ chế thị trường
  • Lượng nước ngầm trên Trái đất đạt 23 triệu kilômét khối
  • Sản xuất hồ tiêu thế giới: Hiện trạng và Triển vọng
  • Triển vọng tích cực cho nguồn cung ngũ cốc toàn cầu năm 2016
  • Cây trồng biến đổi gen với hai tỷ ha (1996-2015); nông dân hưởng lợi >150 tỷ usd trong 20 năm qua
  • Cơ hội cho gạo Việt
  • Việt Nam sẽ áp dụng cam kết TPP cho thêm 40 nước
  • El Nino có thể chấm dứt vào cuối tháng 6
  • Chi phí-hiệu quả của các chương trình bệnh động vật "không rõ ràng"
  • Xuất khẩu hồ tiêu: Gậy ông đập lưng ông
  • Đất có thể đóng vai trò quan trọng trong việc giảm lượng khí nhà kính
  • Quản lý và phát triển thương hiệu gạo Việt Nam
  • Những cách nổi bật để giải quyết những thách thức về hệ thống lương thực toàn cầu
  • Lập bản đồ các hộ nông dân trồng trọt trên toàn thế giới
  • Hỗ trợ chuyển đổi từ trồng lúa sang trồng ngô
  • Nếu không được kiểm soát, cỏ dại sẽ gây thiệt hại kinh tế tới hàng tỷ USD mỗi năm
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD