Theo quy trình mới, để đảm bảo được sự an toàn của thức ăn chăn nuôi, phải phân tích tỉ mỉ, đánh giá chính xác mức độ nguy hiểm của tất cả các nguy cơ tiềm ẩn cũng như phải kiểm soát được chúng trong quá trình chế biến thức ăn và từ đó đưa ra những giải pháp hữu hiệu trong việc loại bỏ hay hạn chế đến mức cho phép những nguy cơ tiềm ẩn, những yếu tố bất lợi đó. Sản xuất theo quy trình này sẽ có thức ăn chất lượng cao, không phải dùng hóa chất cấm và là điều kiện để sản xuất thịt an toàn
Năm đầu tiên, năng suất chất xanh bình quân/lứa cắt ở cỏ Voi, cỏ Sả, cỏ Ruzy và cỏ Paspalum 155,5; 135,8; 126,6; và 102,1 tấn/ha/năm. Năm thứ 2 37,6; 117,80; 105,30 và 103,50 tấn/ha/năm
Tăng trọng cừu trung bình đạt trên 100gam/ngày giai đọan sau cai sữa từ 3-6 tháng tuổi. Khoảng cách lứa đẻ của cừu mẹ có bổ sung thức ăn rút ngắn được 16-17 ngày.
Nguồn gốc tiến bộ kỹ thuật, công nghệ; tiến bộ kỹ thuật này là các kết quả nghiên cứu của đề tài Độc lập cấp Nhà nước “Nghiên cứu bệnh sinh sản, viêm vú bò sữa và xác định giải pháp phòng trị”, được thực hiện trong giai đoạn 2004-2006. Viện KHKT Nông nghiệp miền Nam là cơ quan chủ trì đề tài.
Nguồn gốc tiến bộ kỹ thuật, công nghệ; tiến bộ kỹ thuật này là các kết quả nghiên cứu của đề tài Độc lập cấp Nhà nước “Nghiên cứu bệnh sinh sản, viêm vú bò sữa và xác định giải pháp phòng trị”, được thực hiện trong giai đoạn 2004-2006. Viện KHKT Nông nghiệp miền Nam là cơ quan chủ trì đề tài.
1. Xuất xứ của quy trình: “Quy trình sản xuất thức ăn cho lợn con sau cai sữa” là một quy trình xuất xứ từ dự án: “Hoàn thiện quy trình công nghệ sản xuất thức ăn cho lợn con sau cai sữa”. Thuộc dự án Sản xuất thử - Độc lập cấp Nhà nước - Mã số DADL 2003/05.