Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  24
 Số lượt truy cập :  33378757
Kinh nghiệm phát triển thị trường KH&CN của Hàn Quốc
Thứ năm, 30-08-2018 | 08:07:10

Phát triển thị trường công nghệ của Hàn Quốc có thể chia thành ba giai đoạn: (1) Giai đoạn công nghiệp hóa định hướng xuất khẩu từ những năm 1960 đến 1970; (2) Giai đoạn chuyển sang phát triển các ngành công nghiệp kỹ thuật cao: những năm 1980 và 1990; và (3) Từ năm 1990 đến nay, hội nhập vào quá trình toàn cầu hoá và tự do hoá thương mại.


Trong thời kỳ đầu, nhập khẩu công nghệ đóng vai trò quan trọng thúc đẩy các ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu. Chính sách định hướng xuất khẩu áp dụng cho các ngành công nghiệp đã bão hòa như chế biến thực phẩm, dệt (những năm 1960), luyện kim, đóng tàu và hóa chất (những năm 1970). Đồng thời, Chính phủ áp dụng chính sách thay thế nhập khẩu cho các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng. Những năm 1960, chương trình giáo dục đào tạo của Chính phủ đã tập trung vào phục vụ mục tiêu thích nghi, làm chủ công nghệ nhập khẩu và phát triển công nghệ trong nước. Luật Khuyến khích phát triển công nghệ (1972) quy định: Cho phép doanh nghiệp trích lập Quỹ phát triển Công nghệ nhằm hỗ trợ các hoạt động nhập khẩu và cải tiến công nghệ nhập; doanh nghiệp vay tín dụng dài hạn với lãi suất ưu đãi để thực hiện các hoạt động nhập và cải tiến công nghệ nhập; các tổ chức nghiên cứu trích một phần lợi nhuận thu được từ kết quả các dự án NC&PT trả cho những người tham gia vào dự án NC&PT đó. Đồng thời, quy định Bộ Khoa học và Công nghệ xây dựng kế hoạch cụ thể hỗ trợ các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ mới mà trong nước chưa tạo ra được. Các doanh nghiệp muốn nhận được hỗ trợ phải đăng ký với giám đốc khoa học kỹ thuật để tiến hành đánh giá, thẩm định công nghệ được hỗ trợ.

Chuyển sang giai đoạn phát triển các ngành công nghiệp kỹ thuật cao, Hàn Quốc ưu tiên phát triển một số ngành như điện tử, cơ khí chính xác, và các ngành tiết kiệm năng lượng... Thời kỳ này Hàn Quốc đã xây dựng 13 khu công nghiệp trên cả nước. Chính sách công nghiệp trong thời kỳ này là chuyển dần từ hỗ trợ phát triển các ngành công nghiệp nhẹ sang các ngành công nghiệp công nghệ cao. Nhu cầu về chính sách công nghệ cũng thay đổi để phù hợp với chính sách công nghiệp. Một là, ban hành một số chính sách về li-xăng công nghệ. Hai là, thúc đẩy NC&PT trong nước. Chính phủ thành lập một số trung tâm chuyển giao công nghệ nhằm cung cấp thông tin công nghệ và nhà cung cấp của nước ngoài, thương thảo hợp đồng. Chính phủ cũng áp dụng nhiều biện pháp thúc đẩy NC&PT trong nước nhằm tăng cường năng lực tiếp thu, làm chủ và phát triển công nghệ của các doanh nghiệp trong nước.

Trong giai đoạn toàn cầu hoá và tự do hoá thương mại, Hàn Quốc đã ban hành một số luật như Luật Thương mại 1986 (sửa đổi năm 2003), Luật Thúc đẩy đầu tư nước ngoài 1998 (sửa đổi năm 2003), Luật Khuyến khích công nghệ kỳ thuật nhằm mở rộng các hoạt động xuất - nhập khẩu công nghệ, khuyến khích các công ty đầu tư của nước ngoài chuyển giao công nghệ tiên tiến vào Hàn Quốc và bảo đảm sự phát triển cân đối của các ngành công nghiệp, thúc đẩy áp dụng khoa học và kỹ thuật vào vào sản xuất. Trong giai đoạn này, Hàn Quốc chú trọng vào tăng cường tiềm lực KH&CN trong nước. Bộ Khoa học và Công nghệ đã thực hiện nhiều biện pháp đổi mới KH&CN. Đầu năm 2000, Luật Thúc đẩy chuyển giao công nghệ của Hàn Quốc được ban hành nhằm thúc đẩy thương mại hóa công nghệ được tạo ra từ các tổ chức nghiên cứu công thông qua các biện pháp miễn, giảm thuế, hồ trợ tài chính, hỗ trợ thành lập các tổ chức dịch vụ chuyển giao công nghệ như Trung tâm Chuyển giao Công nghệ Quốc gia, Văn phòng Chuyển giao Công nghệ (TLO) trong các tổ chức nghiên cứu công, và các cơ quan chuyên trách đánh giá công nghệ.

 

N.M.P - NASATI, theo IPP.

Trở lại      In      Số lần xem: 498

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Hơn 120 quốc gia ký kết Hiệp ước Paris về biến đổi khí hậu
  • Một số giống đậu tương mới và mô hình chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất lúa tại Đông Nam Bộ và Đồng Bằng Sông Cửu Long
  • Các nước cam kết chống biến đổi khí hậu
  • 12 giống hoa được công nhận bản quyền
  • Thảo luận việc quản lý nước theo cơ chế thị trường
  • Lượng nước ngầm trên Trái đất đạt 23 triệu kilômét khối
  • Sản xuất hồ tiêu thế giới: Hiện trạng và Triển vọng
  • Triển vọng tích cực cho nguồn cung ngũ cốc toàn cầu năm 2016
  • Cây trồng biến đổi gen với hai tỷ ha (1996-2015); nông dân hưởng lợi >150 tỷ usd trong 20 năm qua
  • Cơ hội cho gạo Việt
  • Việt Nam sẽ áp dụng cam kết TPP cho thêm 40 nước
  • El Nino có thể chấm dứt vào cuối tháng 6
  • Chi phí-hiệu quả của các chương trình bệnh động vật "không rõ ràng"
  • Xuất khẩu hồ tiêu: Gậy ông đập lưng ông
  • Đất có thể đóng vai trò quan trọng trong việc giảm lượng khí nhà kính
  • Quản lý và phát triển thương hiệu gạo Việt Nam
  • Những cách nổi bật để giải quyết những thách thức về hệ thống lương thực toàn cầu
  • Lập bản đồ các hộ nông dân trồng trọt trên toàn thế giới
  • Hỗ trợ chuyển đổi từ trồng lúa sang trồng ngô
  • Nếu không được kiểm soát, cỏ dại sẽ gây thiệt hại kinh tế tới hàng tỷ USD mỗi năm
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD