Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  27
 Số lượt truy cập :  33320148
Quản lý sử dụng phosphor đảm bảo trữ lượng và thúc đẩy sản xuất lương thực toàn cầu
Thứ năm, 18-04-2024 | 06:00:48

 

Chúng ta cần tìm cách sử dụng phosphor hiệu quả, bền vững hơn và nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rằng có tiềm năng đáng kể để cải thiện hiệu quả cách chúng ta sử dụng phân lân: có thể tối ưu hóa sản xuất lương thực toàn cầu mà không đẩy nhanh sự cạn kiệt nguồn dự trữ phân lân quý giá và hữu hạn trên toàn cầu.

Professor Phil Haygarth.

 

Việc sử dụng phosphor (P) hiệu quả hơn có thể giúp dự trữ lượng phân bón hạn chế kéo dài hơn 500 năm và thúc đẩy sản xuất lương thực toàn cầu để nuôi sống dân số ngày càng tăng. Nhưng một nghiên cứu được công bố hôm nay trên tạp chí Nature Food cho thấy những lợi ích này sẽ chỉ xảy ra nếu các quốc gia ít lãng phí hơn trong cách sử dụng P. Khoảng 30-40% đất nông nghiệp đang sử dụng quá mức P, trong đó các nước châu Âu và Bắc Mỹ sử dụng quá mức nhiều nhất. Dân số toàn cầu sẽ đạt gần 10 tỷ người vào năm 2050 và người ta ước tính rằng để nuôi sống dân số ngày càng tăng này, sẽ cần thêm 500 triệu ha đất canh tác - trừ khi P có thể được sử dụng hiệu quả hơn để thúc đẩy và duy trì năng suất cây trồng.

 

Trên toàn cầu có 20.500 kt P được sử dụng cho đất nông nghiệp mỗi năm làm phân bón và được Liên minh Châu Âu liệt kê là nguyên liệu thô quan trọng và gần đây là chủ đề thảo luận của Hội đồng Môi trường Liên Hợp Quốc. Đã có những lo ngại về nguồn cung hạn chế và sự thất thoát nước ngọt ở những nơi có sự suy giảm chất lượng nước. Phosphor chủ yếu đến từ việc khai thác các nguồn đá phosphate, trong đó chỉ có một số lượng tương đối nhỏ các nguồn nằm ở các quốc gia như Maroc và Nga. Những ước tính trước đây về lượng P chúng ta còn lại trên toàn cầu đã thay đổi rất nhiều trong khoảng thời gian từ 30 đến hơn 300 năm. Những ước tính này dựa trên các hoạt động lãng phí hiện đang tiếp diễn và chứa đựng nhiều điều không chắc chắn.

 

Xem xét việc sử dụng P toàn cầu và hàm lượng trong đất trong nghiên cứu của các nhà khoa học tại Đại học Lancaster ở Anh cũng như Đại học AgResearch và Lincoln ở New Zealand, đã kiểm tra nồng độ P trong đất nông nghiệp trên toàn cầu để có sự tăng trưởng tối ưu của 28 loại cây lương thực chính từ lúa mì và ngô đến gạo và táo. Nghiên cứu cho thấy những loại đất không chứa đủ P và những loại đất chứa hàm lượng P cao hơn mức thực vật cần để phát triển tối ưu. Phát hiện của họ đã làm sáng tỏ lượng P có sẵn trong đất và cần thiết làm phân bón, đồng thời tiết lộ rằng trữ lượng P có thể kéo dài tới 531 năm nếu chúng ta sử dụng nó hiệu quả và công bằng hơn – dài hơn 77 năm so với khi chúng ta tuân thủ các biện pháp hiện tại.

 

Phil Haygarth - Đại học Lancaster và đồng tác giả của bài báo cho biết: “Phosphor là loại phân bón thiết yếu thúc đẩy sản xuất lương thực trên khắp thế giới. Chính ‘năng lượng’ của nông nghiệp thúc đẩy hệ thống lương thực của chúng ta, nhưng chúng ta cần quản lý nguồn cung cấp của mình một cách cẩn thận. Chúng ta cần tìm cách sử dụng phân lân hiệu quả và bền vững hơn và nghiên cứu của chúng tôi cho thấy có tiềm năng đáng kể để cải thiện hiệu quả cách chúng ta sử dụng phân lân. Chúng tôi cho thấy có thể tối ưu hóa sản xuất lương thực toàn cầu mà không đẩy nhanh sự cạn kiệt nguồn dự trữ phân lân quý giá và hữu hạn trên toàn cầu. Nguồn phosphor khó có thể cạn kiệt trong 500 năm tới, nhưng chỉ khi chúng ta bón đủ lượng cần thiết để tạo ra năng suất cây trồng tối ưu và ngăn chặn việc sử dụng quá mức lãng phí”.

 

Nhóm nghiên cứu tính toán rằng mỗi năm có 10.556 kt P bị lãng phí do sử dụng quá mức, trong đó phần lớn là lúa mì và đồng cỏ ở châu Âu cũng như ngô và lúa gạo ở Châu Á.

 

Richard McDowell - Đại học Lincoln và AgResearch New Zealand đồng thời là tác giả chính của nghiên cứu cho biết: “Nhiều nông dân bón quá mức P để giữ nó trong đất. Tuy nhiên, chỉ một phần lân trong đất có thể được cây trồng sử dụng. Việc điều chỉnh các ứng dụng để duy trì mức mà kế hoạch cần để tạo ra năng suất tối ưu sẽ loại bỏ nhu cầu lãng phí P. Nếu có hàm lượng P quá cao trong đất mà thực vật không thể sử dụng, P có thể bị mất vào nước, điều này có nguy cơ gây ra các vấn đề về chất lượng nước như hiện tượng phú dưỡng”.

 

Các nhà khoa học sử dụng dữ liệu về đất nông nghiệp trên toàn cầu cũng tính toán trên toàn thế giới gần 3/4 đất nông nghiệp đang bị thiếu hụt P - trong đó tình trạng thiếu hụt P là trầm trọng nhất ở các nước châu Á như Ấn Độ. Do đó, gần 57.000 kt P được sử dụng để bổ sung vào những vùng đất bị thiếu hụt nhằm tăng năng suất cây trồng và 17.500 kt P mỗi năm để duy trì nồng độ P tối ưu trong đất. Điều này sẽ dẫn đến việc giảm nhu cầu P toàn cầu khoảng 3.000 kt/năm.

 

Theo McDowell: “Khoa học rất rõ ràng, nhưng để sử dụng P một cách hiệu quả và mở rộng nguồn cung, các chính phủ cần hợp tác để đưa ra chính sách khuyến khích chỉ sử dụng P ở những nơi cần thiết. Điều đó sẽ liên quan đến việc cân bằng phân phối P để cây trồng phát triển tối ưu và giảm các khoản trợ cấp khiến duy trì việc lạm dụng P và có thể gây ra các vấn đề về chất lượng nước”.

 

Đỗ Thị Thanh Trúc theo Đại học Lancaster.

Trở lại      In      Số lần xem: 82

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD