Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  18
 Số lượt truy cập :  33221742
Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
Thứ ba, 10-05-2016 | 07:54:50

Nguồn: Ling Y, Weilin Z. 2016. Genetic and biochemical mechanisms of rice resistance to planthopper. Plant Cell Rep. 2016 Mar 15. [Epub ahead of print]

TÓM TẮT

Đây là một bài viết có tính chất tổng quan về những cơ chế di truyền và hóa sinh trong mối quan hệ giữa cây lúa và rầy nâu một cách khá hệ thống. Bài viết nhằm mục đích góp phần quản lý rầy nâu, chúng đang phá hại các vùng sản xuất lúa trên toàn thế giới. Bài viết còn nhằm mục đích giúp cho nhà chọn giống hiểu rõ tính kháng rầy nâu của cây lúa. Bởi vì rầy nâu là đối tượng gây hại bậc nhất, đe dọa sản xuất lúa ở khắp nơi. Rầy nâu (BPH), rầy lưng trắng (WBPH) và rầy nâu nhỏ (SBPH) là ba loài côn trùng thuộc Delphacidae, gây hại bằng cách chích hút nhựa và truyền bệnh virus; đối tượng rất quan trọng trong chiến lược bảo vệ cây lúa. Tính kháng của cây chủ được ghi nhận như một giải pháp rất tích cực và có ý nghĩa trong sản xuất, có tính chất kinh tế, thân thiện với môi trường, trong kiểm soát rầy nâu. Cho đến nay, người ta biết có ít nhất 30, 14 34 gen chủ lực/ hoặc loci có tính di truyền số lượng liên quan đến tính kháng rầy nâu, rầy lưng trắng, và rầy nâu nhỏ, theo thứ tự. Phân ti1`ch cơ sở di truyền, bản đồ gen ở mức độ phân tử cho thấy rằng những gen kháng rầy nâu của cây lúa có từ các nguồn vật liệu cho (donor) rất khác nhau; chúng tập họp lại thành những “clusters” di truyền, trong khi tính kháng với ba loài côn trùng nói trên xét trên một nguồn donor nào đó lại được điều khiển bởi không chỉ một gen đơn, mà còn có nhiều gen khác (multiple genes). Theo đó, gen Bph14, Bph26, Bph3 Bph29 được người ta xác định rất thành công, chúng là những gen kháng rầy nâu của cây lúa. Nghiên cứu về sinh học và hóa học về tính chất chích hút của rầy nâu trên cây lúa cho thấy rằng cây chủ cần rất nhiều kiểu hình tự vệ khác nhau để chống lại rầy nâu chích hút. Trong mối tương tác giữa cây lúa và rầy nâu, cây chủ có khả năng tự vệ đối với rầy thông qua hoạt động của tính kháng biểu thị hệ thống SAR (salicylic acid-dependent systemic acquired resistance) chứ không phải hệ thống JAR (jasmonate-dependent hormone response pathways). Cây lúa transgenic rice mang cơ chế kháng rầy nâu cho thấy jasmonate và những chức năng biến dưỡng của nó vô cùng đa dạng trong tính kháng rầy nâu của cây lúa. Hiểu biết về cơ chế di truyền và hóa sinh sẽ làm rõ tính kháng của cây lúa với rầy nâu; đây sẽ là những đóng góp đáng kể cho việc kiểm soát loài côn trùng này và tạo điều kiện cho việc chọn tạo giống lúa kháng rầy nâu hiệu quả hơn.

 

Xem http://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/26979747

GS. BUI CHI BUU – IAS lược dịch.

Trở lại      In      Số lần xem: 4201

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
  • Các nhà khoa học khám phá mắt xích còn thiếu trong quá trình cố định đạm thực vật
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD