Chính sách mới trong khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo ở Thái Lan |
Trong 2 thập kỷ qua, Tổng chi nghiên cứu và phát triển (R&D) của Thái Lan nằm trong khoảng 0,25 - 0,6% GDP (tăng từ 0,36% GDP năm 2011 lên 0,63% năm 2015). Trong Kế hoạch phát triển KT - XH quốc gia mới, Chính phủ đặt ra các mục tiêu tham vọng trong chi NC&PT lần lượt ở mức 1,0% và 1,5% GDP vào các năm 2018 và 2021. |
Trong 2 thập kỷ qua, Tổng chi nghiên cứu và phát triển (R&D) của Thái Lan nằm trong khoảng 0,25 - 0,6% GDP (tăng từ 0,36% GDP năm 2011 lên 0,63% năm 2015). Trong Kế hoạch phát triển KT - XH quốc gia mới, Chính phủ đặt ra các mục tiêu tham vọng trong chi NC&PT lần lượt ở mức 1,0% và 1,5% GDP vào các năm 2018 và 2021.
Thái Lan đang thực hiện Kế hoạch cơ bản quốc gia 10 năm về khoa học và công nghệ (2012 - 2021). Kế hoạch này được thiết kế để cung cấp cơ chế làm phong phú thêm hệ thống đổi mới ở tất cả các cấp từ cấp quốc gia, khu vực và địa phương trong cả nước. Kế hoạch tổng thể quốc gia về khoa học, công nghệ và đổi mới Kế hoạch tổng thế quốc gia về khoa học, công nghệ và đổi mới 2012 - 2021 nhằm mục tiêu thống nhất các cam kết khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong các cơ quan công và tăng cường hợp tác với và giữa khu vực tư nhân, các viện nghiên cứu và hàn lâm. Kế hoạch được thiết kế để liên kết tri thức từ cấp cộng đồng cơ sở đến hợp tác quốc tế.
Đầu tư cho R&D của khu vực doanh nghiệp Thái Lan tăng 360% trong giai đoạn 2008 - 2014 với trọng tâm hướng vào lĩnh vực chế tạo. Tuy nhiên, tỷ trọng chi R&D doanh nghiệp trong GDP của Thái Lan vẫn còn thấp xa so với các nước phát triển. Ưu đãi thuế và các phiếu (voucher) đổi mới sáng tạo là những công cụ chính sách quan trọng tài trợ cho R&D doanh nghiệp. Cải cách thuế gần đây nâng mức giảm thuế tối đa đối với chi R&D và đổi mới sáng tạo từ 200% lên 300%.
Cho đến gần đây, việc quản trị các chính sách khoa học và đổi mới sáng tạo bao gồm vô số cơ quan hành chính chồng chéo và không có sự phân định trách nhiệm rõ ràng (Hội đồng Nghiên cứu Quốc gia (NRC), Ủy ban Chính sách Khoa học, Công nghệ và đổi mới sáng tạo Quốc gia, Viện nghiên cứu KH&CN (TISTR), Cục Phát triển KH&CN Quốc gia (NSTDA,…). Do vậy, Chính phủ đã tiến hành Chương trình Cải tổ Quản trị KHCN và đổi mới sáng tạo vào năm 2016 với 3 mục tiêu chính: i) xem xét lại hệ thống quản lý KHCN và đổi mới sáng tạo, và R&D; ii) đưa KHCN và đổi mới sáng tạo, và R&D vào kế hoạch phát triển quốc gia; iii) áp dụng hệ thống cấp ngân sách dựa trên lịch trình. Kết quả là Hội đồng Chính sách Nghiên cứu và đổi mới sáng tạo Quốc gia được thành lập tháng 10 năm 2016 như một cơ quan duy nhất đưa ra định hướng chính sách cho nghiên cứu và đổi mới sáng tạo và việc triển khai chúng. Văn phòng KHCN và đổi mới sáng tạo và Hội đồng Nghiên cứu Quốc gia Thái Lan cùng chia sẻ vai trò thư ký của Hội đồng mới này.
Trong chiến lược Thailand 4.0, mười lĩnh vực công nghiệp "đặc trưng" ("S-Curve") đã được xác định để tạo nên các nền tảng công nghiệp tương lai cho nền kinh tế dựa vào tri thức của Thái Lan. Theo thứ tự ưu tiên, các ngành công nghiệp thâm dụng kỹ năng thay thế cho các ngành thâm dụng lao động trước đó, nâng cao năng suất và sức cạnh tranh của đất nước. Sự tiếp cận công nghiệp đặc trưng bao gồm nâng cấp 5 ngành công nghiệp hiện hữu là ôtô, điện tử thông minh, y học và du lịch, nông nghiệp và công nghệ sinh học, công nghiệp chế biến thực phẩm. Ngoài ra, 5 lĩnh vực công nghiệp mới sẽ được thúc đẩy để tạo ra "Đặc trưng mới" của Thái Lan gồm: i) người máy, ii) hàng không và hậu cần, iii) nhiên liệu sinh học và hóa sinh, iv) công nghiệp kỹ thuật số, v) y học. Thái Lan đã xây dựng các biện pháp thúc đẩy đầu tư và phát triển nguồn nhân lực để thúc đẩy sự phát triển của 10 lĩnh vực công nghiệp này.
Mặc dù trong hai thập niên qua, Chính phủ Thái Lan đã cải cách và nâng cao hệ thống giáo dục, tỷ lệ chi tiêu cho giáo dục đại học trong GDP của Thái Lan vẫn thấp so với các nước phát triển. Tỷ lệ người trưởng thành có bằng đại học thấp và điểm khoa học thấp ở thiếu niên cho thấy Thái Lan cần xem xét lại công tác giáo dục để đáp ứng nhu cầu lao động KHCN có kỹ năng đang tăng cao. Đồng thời nhu cầu nhân lực R&D trong khu vực tư nhân đã tăng 400% trong giai đoạn 2008 - 2014. Chính phủ hướng tới việc cải thiện nguồn nhân lực nói chung và kỹ năng thông qua các chính sách và chương trình cụ thể như Chính sách Phát triển lực lượng lao động và Giáo dục STEM, Chương trình Giáo dục kép, Chương trình Học kết hợp với làm việc và Chương trình Phát triển kỹ năng. Được Văn phòng KHCN và đổi mới sáng tạo quản lý, Chương trình Di chuyển nhân tài là một nền tảng quốc gia để điều phối và tăng tính di động của các nhân viên nghiên cứu giữa khu vực công và tư nhân. Từ khi bắt đầu năm 2013, Chương trình Di chuyển nhân tài đã hỗ trợ việc di chuyển 240 nhà nghiên cứu và 157 sinh viên, làm việc với 127 dự án và tổng cộng 111 công ty đã tham gia chương trình vào giữa năm 2016.
NASATI , theo OECD.
|
Trở lại In Số lần xem: 832 |
[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
|