Công trình “Lúa Xuân - vụ Đông” chính là những yếu tố mới làm thay đổi cấu trúc kinh tế ngành nông nghiệp cũng như làm thay đổi cả hình ảnh Việt Nam: từ một quốc gia phải nhập cả lương thực đến một quốc gia xuất khẩu lúa gạo.
Không ai ngờ rằng, việc áp dụng giống lúa mới và cơ cấu mùa vụ mới theo sáng kiến của giáo sư Bùi Huy Đáp đã làm thay đổi diện mạo của canh tác lúa nước Việt Nam. Việc có thêm vụ Đông khiến xã viên đề nghị hợp tác xã mượn đất, nhờ vậy sản lượng lương thực nâng lên đột biến. Đây cũng là một phần nguyên nhân khiến cơ chế “khoán hộ” của ông Kim Ngọc, Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phú từ chỗ bị phê phán lại được chấp nhận, và đưa thành chỉ thị 100 của Trung ương Đảng (tháng 1/1981), một thay đổi lớn trong quyền sử dụng đất. Thành công của “lúa Xuân - vụ Đông” tiếp tục tác động đến chính sách với sự ra đời Nghị quyết 10 (tháng 4/1988) của Đảng thừa nhận hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ - một cuộc cách mạng trong quan hệ sản xuất.
Tôi vẫn còn nhớ năm 1980, khi nghiên cứu chất hữu cơ đất lúa ngập nước ở Viện Nghiên cứu Lúa Quốc tế (IRRI), tôi gặp một nghiên cứu viên người Pháp cùng bộ môn Hóa học đất dưới sự chỉ dẫn của giáo sư F.M. Ponnamperuma. Anh ấy bảo: “Tôi đọc Bùi Huy Đáp, Nguyễn Khắc Viện, Hữu Ngọc,… trên Études Vietnamiennes rồi. Mấy chục năm trước Việt Nam từng xuất khẩu gạo sang châu Phi, nay có những chuyên gia lúa tầm cỡ như Bùi Huy Đáp, mà lại thiếu ăn đến mức phải nhập bột mì là sao, vô lý, vô lý!”. Tôi thấy đắng lòng, không trả lời được, đành chỉ nói theo “Đúng là vô lý!”.
Vì vậy phải nói rằng những thành quả lớn từ “cuộc cách mạng xanh” ở Việt Nam khiến bạn bè quốc tế thán phục. Tiến sĩ S.N. Prasad, người Ấn Độ, Trưởng bộ môn Canh tác của IRRI nhắc đi nhắc lại rằng IR8 đi vào cơ cấu cây trồng ở đồng bằng Bắc Bộ thật là ấn tượng.
Năm 1990, Viện Nông hóa Thổ nhưỡng bắt đầu tham gia Mạng lưới Đất dốc và đất chua châu Á (ASIA-LAND NETWORK) của Tổ chức Nghiên cứu Quản lý Đất quốc tế (IBSRAM). Lần đầu tiên Việt Nam có báo cáo tại Hội nghị hằng năm tại Bangkok, tôi trình bày đề cập sự kiện Việt Nam đã xuất khẩu 1,4 triệu tấn gạo, không ngờ phần thảo luận bị kéo dài, hội trường xoay sang tin mới này mà quên cả trao đổi nội dung chính của báo cáo là quản lý đất. TS Marc Latham, người Pháp, Giám đốc IBSRAM, nói lời kết: “Bất ngờ, ấn tượng, khó tin, nhưng là sự thật. Chúc mừng Việt Nam !”. Ông cũng nói thêm: lúa và đất lúa đã vậy, thì với đất dốc chắc các bạn sẽ làm tốt.
Khi tham gia Chương trình hợp tác Pháp-Việt “Nghiên cứu so sánh hệ thống nông nghiệp châu thổ sông Hồng và vùng đồng bằng Camague, Pháp”, tại phòng thí nghiệm của giáo sư A.P. Conessa ở Montpellier, có một đồng nghiệp thuộc phái hữu Le Pen không ưa gì Việt Nam hỏi: “Việt Nam đủ lương thực chứ?”, tôi đáp: “Quá đủ, còn thừa, xuất khẩu hơn hai triệu tấn đấy”. Lần khác, khi tôi tham gia soạn Hiệp định 3 bên Việt Nam-FAO-Sénégal năm 1997, các bạn Sénégal bảo: “Dân tôi chỉ biết ăn sắn, được biết đến cơm là nhờ gạo Việt Nam xuất sang từ những năm 1930, bây giờ Việt Nam đã xuất khẩu gần ba triệu tấn gạo, thật kỳ diệu”. Năm 2010, đến Sudan trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Nghiên cứu Nông nghiệp hai nước, các bạn bảo: “Chuyên gia nhiều nước đến rồi, không thành công, phải mời các bạn, vì Việt Nam dẫn đầu thế giới về lúa gạo là nhờ nghiên cứu gắn với công tác khuyến nông theo phương pháp Bùi Huy Đáp”. Tên tuổi Bùi Huy Đáp được nhắc đến nhiều ở các nước châu Phi Pháp ngữ nhờ các công trình được trích dẫn của ông phần nhiều bằng tiếng Pháp và phương pháp Bùi Huy Đáp.
Trong cuộc đời làm khoa học của mình, giáo sư Bùi Huy Đáp nghiên cứu nhiều đối tượng cây trồng nhưng cây lúa vẫn là nơi ông đặt nhiều tâm huyết. Có lẽ, những tâm huyết ấy của ông đã đem lại sức sống mới và vẻ đẹp mới cho cây lúa, “cây ấm no” mà ngày nay trở thành một mặt hàng xuất khẩu quan trọng của ngành nông nghiệp Việt Nam, như trong câu hát “Có gì đẹp trong cây lúa Việt Nam”. □
---
Bài viết sử dụng tư liệu với sự đồng ý của Viện Môi trường Nông nghiệp.
Chú thích
1. Bài thơ “Nỗi mừng nghe tin lúa” của Xuân Diệu.
Bèo hoa dâu là một cống hiến của Nông học Việt Nam cho Nông học nhiệt đới ẩm thế giới. Kinh nghiệm quí báu của nông dân Bích Du (Thái Bình) về thả bèo dâu trong ruộng lúa được kỹ sư Nguyễn Công Tiễu khảo cứu và lần đầu tiên được ông giới thiệu bí mật thể cộng sinh cố định N “Azolla-Anabaena” tại Hội nghị Khoa học Khu vực châu Á-Thái Bình Dương tại York Jakarta (Indonesia, 1927). Viện trưởng Bùi Huy Đáp cùng với GS Đào Thế Tuấn hướng dẫn KS Trần Quang Thuyết ở Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam (nay là Viện KH Nông nghiệp Việt Nam) nghiên cứu trong nhiều năm và đúc kết thành giải pháp nuôi bèo dâu trong nghề trồng lúa những năm 1960-1990. Những năm 1980, Viện Thổ nhưỡng Nông hóa đã hợp tác với Viện Nghiên cứu Lúa Quốc tế (IRRI) nghiên cứu đi sâu chuyên đề này. Mặc dù ở ta các yếu tố tăng vụ, dùng phân đạm nhiều, công lao động đắt lên làm cho bèo dâu không còn vai trò như trước; nhưng TS Iwao Watanabe, C.P. Mamaril, J.C. Bunoan của IRRI đánh giá rất cao giải pháp sinh học này vì ở rất nhiều nước vẫn còn cần bèo dâu trong hệ thống lúa-bèo, lúa-bèo-vịt
Nguyễn Tử Siêm - Tiasang.