Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  25
 Số lượt truy cập :  33485339
Để phát triển bền vững ngành chăn nuôi trong giai đoạn hiện nay
Thứ sáu, 25-04-2014 | 08:06:00

Trong xu hướng hội nhập sâu rộng hiện nay, ngành chăn nuôi trong nước sẽ tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó khăn và mức độ cạnh tranh với sản phẩm nhập khẩu ngày càng khốc liệt hơn. Để ngành phát triển bền vững, nhiều giải pháp đã được đưa ra, trong đó yêu cầu về chăn nuôi tập trung, quy hoạch vùng, chủ động đảm bảo nguồn thức ăn chăn nuôi trong nước được đặt ra khá cấp thiết.

 

Theo nhìn nhận chung của nhiều chuyên gia về nông nghiệp, năm 2014 được dự báo là một năm đầy khó khăn, thách thức với ngành chăn nuôi Việt Nam trong bối cảnh đất nước ngày càng hội nhập sâu với khu vực và thế giới. Yêu cầu đặt ra cho ngành hiện nay là phải đẩy mạnh tái cơ cấu để nâng cao hiệu quả sản xuất và tăng sức cạnh tranh. Trong đó, việc tạo lợi thế cạnh tranh chính là con đường duy nhất để ngành tồn tại trong xu thế hiện nay.

 

Những bất cập của ngành chăn nuôi hiện nay

 

 

Trước khi phát triển chăn nuôi quy mô lớn, tập trung, trước mắt, nước ta
vẫn phải chấp nhận hình thức chăn nuôi nhỏ, lẻ để duy trì sản xuất (Ảnh: HNV)

 

Phân tích về thực trạng ngành hiện nay, Lãnh đạo Cục Chăn nuôi, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT) đánh giá, khó khăn lớn nhất của ngành chăn nuôi hiện nay là thiếu sự phối hợp giữa người sản xuất và thị trường để tạo ra một chuỗi liên kết ổn định. Do đó, thu nhập, giá trị gia tăng chưa lớn, gây khó khăn cho người chăn nuôi và tạo ra tâm lý không muốn tái đàn, dẫn tới giá cả biến động.

 

Theo các chuyên gia trong ngành, hiện, chăn nuôi Việt Nam đang tồn tại các điểm yếu cần khắc phục: phát triển không bền vững về năng suất, giá cả; chất lượng một số giống vật nuôi thấp; hình thức tổ chức sản xuất còn cũ, manh mún và bị cắt khúc nên hiệu quả kinh tế không cao. Thêm vào đó là tình trạng ô nhiễm môi trường trong chăn nuôi, gặp nhiều khó khăn trong xử lý chất thải, dịch bệnh, tình trạng giết mổ thủ công vẫn còn tràn lan, thiếu điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP).

 

Theo một số liệu thống kê, vấn đề khá nan giải đối với người chăn nuôi hiện nay là đầu vào thức ăn chăn nuôi chủ yếu nhập khẩu, giá thức ăn chiếm 65-75% giá thành sản phẩm so với khu vực. Chỉ tính riêng năm 2013, Việt Nam thu về 2,95 tỷ USD về xuất khẩu gạo nhưng chi tới 3 tỷ USD để nhập khẩu thức ăn chăn nuôi (nguyên liệu không đáp ứng nhu cầu, chế biến trong nước giá cao hơn 1-2k/1kg...).

 

Thừa nhận trong nhiều năm qua, hệ thống chăn nuôi ở nước ta chủ yếu là nhỏ, lẻ nhưng Lãnh đạo Bộ NN&PTNT cũng khẳng định, chính hệ thống này cũng đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển của ngành. Thực tế phát triển của ngành cũng cho thấy, dù phát triển theo hướng quy mô, tập trung, nước ta vẫn phải chấp nhận hỗ trợ hộ chăn nuôi nhỏ duy trì sản xuất. Tuy nhiên, Bộ sẽ lưu ý chỉ đạo, quản lý tới việc tạo ra các sản phẩm chăn nuôi an toàn, có chất lượng, có hiệu quả. Như khẳng định của Bộ trưởng Cao Đức Phát là không thể ngay lập tức loại bỏ chăn nuôi nhỏ lẻ nhưng hình thức chăn nuôi nông hộ sẽ được phát triển chặt chẽ, đáp ứng các yêu cầu cao và khắt khe để từng bước tiến lên chăn nuôi trang trại với quy trình kỹ thuật tiến bộ. Bộ sẽ chỉ đạo tập trung nghiên cứu, chọn, tạo, phổ biến giống vật nuôi đạt trình độ công nghệ đáp ứng cạnh tranh, đặc biệt phát huy vật nuôi lợi thế quốc gia, lợi thế từng vùng. Đồng thời phối hợp với các địa phương hướng dẫn tổ chức chống dịch khi có dịch bùng pháp, biện pháp tình thế từng bước hình thành hệ thống phòng chống dịch bệnh ổn định hơn trong lâu dài. Tới đây, với chức năng nhiệm vụ của Bộ chủ quản, Bộ sẽ khuyến khích phát triển chăn nuôi quy mô lớn hơn ở các cơ sở chăn nuôi công nghiệp có điều kiện áp dụng khoa học kỹ thuật (KHKT) làm sản phẩm với năng suất chất lượng cao cạnh tranh quốc tế.

 

Thức ăn chăn nuôi công nghiệp là con đường tất yếu để nâng cao hiệu quả thức ăn. Nhận thức được điều này, Bộ NN&PTNT cũng quyết tâm triển khai sản xuất, chủ động nguồn thức ăn chăn nuôi. Thống kê của Bộ NN&PTNT cho thấy, về nhập khẩu thức ăn, hiện, nước ta đang nhập khẩu hơn 2 triệu tấn ngô, hơn 2 triệu đỗ tương và một số lượng thức ăn bổ sung. Sản xuất trong nước hiện đạt 5 triệu tấn ngô, 200 ngàn tấn đỗ tương (hơi ít so với nhu cầu), vì thế, để hỗ trợ giảm giá thành thức ăn chăn nuôi trong nước, ngành đang nỗ lực phát triển nhanh hơn việc sản xuất ngô (có thể cạnh tranh với nước ngoài và khu vực) đồng thời phát triển tối đa đỗ tương tùy theo đặc điểm của từng vùng... Tuy nhiên, chúng ta vẫn không tránh khỏi phải nhập khẩu một thời gian nữa.

 

Về vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm, vật tư giả, kém chất lượng ảnh hưởng đến sản xuất và thu nhập của nông dân nói chung và người chăn nuôi nói riêng, thời gian qua cũng được Bộ rất chú ý và hiểu đây là yêu cầu bức thiết, mệnh lệnh đối với Bộ. Bộ cũng xác định tăng cường quản lý nhà nước, nâng cao chất lượng vật tư nông nghiệp và đảm bảo VSATTP là nhiệm vụ trọng tâm số 1 của toàn ngành nông nghiệp. Đích thân Bộ trưởng Bộ NN&PTNT hàng tháng giao ban cơ quan chức năng triển khai các biện pháp nhưng thực tế tình hình vẫn chuyển biến chậm, do đó, trong thời gian tới, Bộ càng quyết tâm thực hiện nhu cầu bức thiết này của nhân dân.

 

Đồng bộ các giải pháp để chăn nuôi phát triển bền vững

 

 Tập trung chọn, tạo các loại giống chất lượng cao cũng là một trong nhiều nội dung được triển khai để phát triển chăn nuôi bền vững, nâng cao sức cạnh tranh của chăn nuôi trong nước (Ảnh: HNV)


Phân tích về sự phát triển của ngành, các chuyên gia đề xuất, trước hết, cần thống nhất phương pháp thống kê sản lượng sản phẩm sản xuất ra trong năm của ngành chăn nuôi, vì đây là chỉ tiêu cực kỳ quan trọng đối với ngành chăn nuôi nhằm đánh giá đúng vị trí và đóng góp của ngành chăn nuôi, là cơ sở để xây dựng chiến lược phát triển ngành chăn nuôi.

 

Tiếp đó, cần đầu tư các cơ sở nuôi giữ, bảo tồn, chọn lọc, nhân các giống trong nước quý để làm nguyên liệu lai giữa các giống nội và lai giữa các giống nội với ngoại, tạo con lai thương phẩm có năng suất, chất lượng cao, cung cấp cho thị trường trong nước và hướng xuất khẩu. Khuyến khích phát triển cây nguyên liệu làm thức ăn chăn nuôi để giảm nhập, giảm giá thành thức ăn.

 

Có chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư xây dựng và nâng cấp các cơ sở giết mổ tập trung và kinh doanh thực phẩm có nguồn gốc và động vật, giao đất vĩnh viễn hoặc có thời hạn dài để chủ đầu tư yên tâm đầu tư phát triển cơ sở giết mổ tập trung và công nghiệp.

 

Quy hoạch xây dựng chợ đầu mối để kiểm soát vận chuyển trước khi cung ứng cho các cơ sở giết mổ theo vùng và theo chuỗi cung ứng. Thêm vào đó, thực tế cho thấy hiện nay, khả năng sản xuất của ngành chăn nuôi trong nước rất lớn, không những cung cấp dư thừa cho nhu cầu trong nước mà còn hướng tới xuất khẩu, do đó cần phải bảo hộ người chăn nuôi trong nước. Muốn vậy, cũng phải quan tâm đào tạo nghề chăn nuôi cho người chăn nuôi kể cả quản lý và khoa học kỹ thuật...

 

Thiết nghĩ, để phát triển chăn nuôi quy mô lớn, cũng cần tập trung phát triển các loại vật nuôi có thế mạnh; có chính sách quy hoạch đất đai, định hướng lâu dài, ổn định các vùng chăn nuôi, công nghiệp, bán công nghiệp; chú trọng chuyển đổi diện tích đất canh tác kém hiệu quả sang chăn nuôi tập trung. Đổi mới chính sách cho vay vốn tín dụng, bố trí sản xuất, chăn nuôi gắn với việc xử lý chất thải, ngăn ngừa và giảm thiểu ô nhiễm môi trường; đưa ra các giải pháp kỹ thuật chăn nuôi hợp lý, chọn giống tốt, thức ăn chăn nuôi công nghiệp đảm bảo; xây dựng chuồng trại, thiết bị tiên tiến phù hợp với từng vật nuôi và đặc điểm khí hậu của từng vùng. Quy hoạch đất đai là vấn đề ưu tiên hàng đầu. Để ngành chăn nuôi phát triển ổn định, có chiều sâu, cũng cần rà soát và quy hoạch lại đất đai, cần hình thành các khu chăn nuôi riêng biệt, mang tính công nghiệp, độc lập, cách xa dân cư.

 

Mục tiêu xây dựng nền chăn nuôi an toàn sinh học, bền vững được đề ra trong bối cảnh ngành còn đối mặt với nhiều gian khó. Không chỉ ở cấp Bộ, bản thân các địa phương có lợi thế phát triển ngành chăn nuôi hiện nay cũng cần chủ động huy động các nguồn lực đầu tư tại địa bàn để hỗ trợ ngành chăn nuôi phát triển. Cần chú trọng đầu tư phát triển các sản phẩm mà địa phương có lợi thế, từng bước xây dựng chỉ dẫn địa lý, xây dựng thương hiệu, tạo lợi thế cạnh tranh cho sản phẩm. Đối với những giống vật nuôi bản địa cho sản phẩm chất lượng cao nhưng có nguy cơ mai một cần có định hướng và đề ra các giải pháp cụ thể để bảo tồn và phát triển.

 

Bên cạnh duy trì và phát triển tổng đàn gia súc, gia cầm, cần tiếp tục chú trọng nâng cao chất lượng đàn. Giám sát phương thức chăn nuôi của người dân, kiểm tra tồn dư chất kháng sinh, chất cấm có trong thịt để từ đó xây dựng các biện pháp sản xuất thịt lợn đảm bảo chất lượng, an toàn thực phẩm. Giám sát chặt chẽ và tăng cường kiểm soát dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm, gắn trách nhiệm cho đội ngũ làm công tác thú y tại địa phương. Đồng thời, tăng cường kiểm tra các đại lý cung ứng thức ăn chăn nuôi trên địa bàn tỉnh, giám sát chất lượng thức ăn gia súc, đặc biệt là hàm lượng chất kháng sinh, chất cấm được bổ sung trong thành phần thức ăn. Để khuyến khích người dân tham gia cung ứng các sản phẩm thịt sạch, đảm bảo an toàn thực phẩm, cần sớm xây dựng chuỗi đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm thịt từ khâu giống - chăn nuôi - giết mổ - tiêu thụ.

 

Về cơ bản, để phát triển chăn nuôi bền vững, có hiệu quả, tăng thu nhập cho nông hộ cần tập trung quy hoạch vùng chăn nuôi, trong vùng quy hoạch cần phải nuôi giống gia súc hoặc gia cầm nào là phù hợp, xác định chăn nuôi để làm tăng giá trị gia tăng hay làm giàu; từ đó, xác định được quy mô phát triển cho từng vùng miền và cho từng địa phương… Bên cạnh đó, cũng phải xác định tùy theo tình hình địa phương, từng điều kiện đất đai, thời tiết, khí hậu từng vùng miền mà lựa chọn quy mô phù hợp.

 

Việc xử lý ô nhiễm môi trường trong chăn nuôi có rất nhiều công nghệ hiện đại như đệm lót sinh học, biogas... Tuỳ theo đặc điểm của từng vùng, từng mô hình mà người chăn nuôi sử dụng các biện pháp khác nhau. Trong đó, hai biện pháp được đánh giá có nhiều ưu điểm là sử dụng công nghệ khí sinh học biogas và đệm lót sinh học. Việc xây dựng hầm biogas để xử lý chất thải từ chăn nuôi là biện pháp mang lại tác dụng lớn. Hình thức này được gọi là “chăn nuôi xanh” hay chăn nuôi thân thiện với môi trường. “Chăn nuôi xanh” nhằm vào 3 yêu cầu, một là giảm thiểu ô nhiễm đất và nước, hai là giảm thiểu tác động đến hiệu ứng nhà kính và ba là giảm thiểu việc sử dụng nhiên liệu hoá thạch. Củng cố, nâng cao năng lực kiểm soát dịch bệnh của hệ thống thú y từ Trung ương đến địa phương, nhất là hệ thống thú y cơ sở.

 

Vấn đề định hướng và giải pháp phát triển chăn nuôi bền vững, hiệu quả tăng thu nhập cho người nông dân là cần thiết và cấp bách, góp phần nâng cao đời sống của nhân dân, xây dựng nông thôn mới ngày càng khởi sắc. Hơn nữa, nhìn trong tổng thể việc tái cơ cấu nền nông nghiệp hiện nay, việc tái cơ cấu ngành chăn nuôi cũng được tập trung đẩy mạnh. Theo đó, phát triển chăn nuôi tập trung theo quy mô trang trại, gia trại, duy trì chăn nuôi nông hộ nhưng theo hình thức công nghiệp và ứng dụng công nghệ cao. Trong đó, ưu tiên vấn đề nâng cao chất lượng con giống và xây dựng hành lang pháp lý để tăng cường quản lý các loại giống đang lưu hành.

 

Sức ép từ việc phải cạnh tranh ngay trên "sân nhà" cũng khiến các nhà quản lý chăn nuôi trong nước đưa ra những biện pháp cụ thể để tạo bứt phá tạo ưu thế cạnh tranh bền vững cho ngành hàng này. Dự kiến, ngay trong năm 2014, Cục Chăn nuôi sẽ triển khai những biện pháp khuyến khích, thúc đẩy các doanh nghiệp, cơ quan nghiên cứu chọn tạo giống và nhập các loại giống tiên tiến trên thế giới về để lai tạo ra bộ giống tốt, nhằm từng bước giúp sản phẩm chăn nuôi của Việt Nam có sức cạnh tranh tốt hơn. Bên cạnh đó, cơ cấu giống vật nuôi cũng cần được chuyển dịch theo hướng tập trung vào nhóm sản phẩm ít bị cạnh tranh, đặc biệt, xây dựng liên kết theo chuỗi để giảm thuế và chi phí chăn nuôi cho người nông dân. Cũng trong năm 2014 này, Cục Chăn nuôi sẽ phải nhanh chóng hoàn thành, trình Bộ phê duyệt đề án tái cơ cấu ngành Chăn nuôi theo hướng nâng cao giá trị gia tăng. Đồng thời, tổ chức tốt sản xuất, hoàn thiện các văn bản pháp quy, tạo hành lang pháp lý ổn định cho sản xuất khi hội nhập. Bên cạnh đó, tăng cường thanh kiểm tra, xử lý nghiêm khắc các vi phạm trong lĩnh vực chăn nuôi./.

 

Việt Hà - ĐCSVN.

Trở lại      In      Số lần xem: 2258

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Hơn 120 quốc gia ký kết Hiệp ước Paris về biến đổi khí hậu
  • Một số giống đậu tương mới và mô hình chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất lúa tại Đông Nam Bộ và Đồng Bằng Sông Cửu Long
  • Các nước cam kết chống biến đổi khí hậu
  • 12 giống hoa được công nhận bản quyền
  • Thảo luận việc quản lý nước theo cơ chế thị trường
  • Lượng nước ngầm trên Trái đất đạt 23 triệu kilômét khối
  • Sản xuất hồ tiêu thế giới: Hiện trạng và Triển vọng
  • Triển vọng tích cực cho nguồn cung ngũ cốc toàn cầu năm 2016
  • Cây trồng biến đổi gen với hai tỷ ha (1996-2015); nông dân hưởng lợi >150 tỷ usd trong 20 năm qua
  • Cơ hội cho gạo Việt
  • Việt Nam sẽ áp dụng cam kết TPP cho thêm 40 nước
  • El Nino có thể chấm dứt vào cuối tháng 6
  • Chi phí-hiệu quả của các chương trình bệnh động vật "không rõ ràng"
  • Xuất khẩu hồ tiêu: Gậy ông đập lưng ông
  • Đất có thể đóng vai trò quan trọng trong việc giảm lượng khí nhà kính
  • Quản lý và phát triển thương hiệu gạo Việt Nam
  • Những cách nổi bật để giải quyết những thách thức về hệ thống lương thực toàn cầu
  • Lập bản đồ các hộ nông dân trồng trọt trên toàn thế giới
  • Hỗ trợ chuyển đổi từ trồng lúa sang trồng ngô
  • Nếu không được kiểm soát, cỏ dại sẽ gây thiệt hại kinh tế tới hàng tỷ USD mỗi năm
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD