Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  29
 Số lượt truy cập :  33270632
Đòi hỏi công tác giống chuyển biến mạnh, thích ứng với hội nhập
Chủ nhật, 21-12-2014 | 06:34:58

“Công tác về giống có vẻ lủng củng ngay từ đầu”, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Cao Đức Phát nhận xét đầy ẩn ý trong lời mở đầu Hội nghị Giống cây trồng, vật nuôi tổ chức ngày 5/12, tại Hà Nội.

 

 

Quả thực, theo Bộ trưởng Cao Đức Phát, 15 năm trước Bộ đã đề xuất khởi động chương trình giống, trong đó tập trung cao độ việc cải thiện công tác giống với mục tiêu chọn tạo nhiều giống tốt hơn, năng lực sản xuất cung ứng kịp thời các loại giống thương phẩm có chất lượng. Mặc dù, đã có chuyển biến, năng suất cây trồng vật nuôi tăng, một số giống có năng suất đạt tầm thế giới, tuy nhiên, ngành giống vẫn còn nhiều vấn đề đang đặt ra.

 

“Quốc hội, nhân dân yêu cầu nhanh chóng có những giống với những đặc tính cao hơn về năng suất, chất lượng đặc biệt thích ứng với hoàn cảnh mới. Nâng cao năng lực tổ chức sản xuất cung cấp kịp thời cho nhu cầu trong nước, giảm phụ thuộc vào nhập khẩu nước ngoài”, Bộ trưởng nói.

 

Đặc biệt, trong bối cảnh hội nhập quốc tế về nông nghiệp, Việt Nam đang đàm phàn nhiều Hiệp định về thương mại tự do với EU, Nga, Belarus…, và từ năm 2015 nền nông nghiệp sẽ mở cửa hội nhập  ngày càng sâu rộng, đòi hỏi đáp ứng yêu cầu cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Vì vậy, nền nông nghiệp cần chuyển biến mạnh mẽ, đáp ứng những yêu cầu mới, các sản phẩm nông nghiệp phải bám sát yêu cầu cả về năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

 

“Để tái cơ cấu ngành, công tác giống không chỉ tăng cường mà phải điều chỉnh năng lực chọn tạo cả về cách tiếp cận và cơ cấu các loại giống sẽ cung cấp. Ví dụ, lúa thay vì giống có năng suất cao ngắn ngày thì cần hơn tới yếu tố chất lượng, thông qua đánh giá của thị trường có giá cao hơn, bền vững hơn với quy mô lớn, xây dựng hình ảnh một nước Việt Nam sản xuất thương hiệu lúa tốt bền vững”, Bộ trưởng nhấn mạnh.

 

Tương tự với các ngành chăn nuôi, thủy sản, lâm nghiệp cần có các cây, con giống tốt, năng suất, chất lượng tiếp cận với trình độ quốc tế.

Tại hội nghị, Bộ trưởng Cao Đức Phát yêu cầu các đơn vị tập trung làm rõ 3 vấn đề: Định hướng phát triển giống với các loại cây con chủ lực. Định hướng đổi mới cơ chế chính sách, đặc biệt khuyến khích doanh nghiệp tham gia nghiên cứu chọn tạo giống. Trong 15 năm qua dù đã quan tâm nhưng phần lớn vẫn ưu tiên cho các tổ chức, doanh nghiệp nhà nước. Cuối cùng phải tìm được các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý giống.

 

Theo ông Trần Mạnh Báo, Tổng giám đốc Tổng công ty Giống cây trồng Thái Bình, cần sớm xây dựng Luật về Giống cây trồng và đổi mới thủ tục công nhận và phát triển giống mới; hệ thống hóa văn bản pháp luật, đồng thời xây dựng Chiến lược phát triển ngành giống nông nghiệp Việt Nam, trong đó xác định vai trò vị trí của các chủ thể hoạt động trong lĩnh vực này từ quản lý, nghiên cứu, chuyển giao, thương mại và công nghiệp hóa ngành giống, đẩy mạnh hợp tác quốc tế và sở hữu trí tuệ.

 

Ông Đặng Quốc Tuấn, Phó Tổng giám đốc Tập đoàn Việt – Úc - đơn vị dẫn đầu trong cung cấp tôm giống chất lượng cho thị trường Việt Nam, cho biết: Tôm là một trong những ngành mũi nhọn trong lĩnh vực thủy sản với kim ngạch xuất khẩu năm 2014 ước đạt 3,8 tỷ USD, trong đó tôm thẻ chân trắng đóng góp tới hơn một nửa kim ngạch xuất khẩu. Tuy nhiên, từ năm 2008 đến nay, ngành thủy sản vẫn chưa có thêm giống mới nào, đây cũng là động lực lớn cho các doanh nghiệp thủy sản cạnh tranh phát triển.

 

“Công nghệ lai tạo tôm thẻ chân trắng hiện đại của Tập đoàn có thể cạnh tranh với thế giới, nhưng giống tôm bố, mẹ vẫn phải nhập khẩu. Tập đoàn đã có Chương trình phát triển giống tôm bố mẹ, nếu được thông qua trong năm 2015 thì Việt Nam là một trong số ít nước có thể cung cấp tôm bố mẹ. Điều này là rất quan trọng”, ông Tuấn nhấn mạnh.

 

Ông Đặng Quốc Tuấn cũng mong muốn, ở Việt Nam cần có từ 8 - 10 Tập đoàn hàng đầu để nâng tầm thương hiệu tôm Việt Nam.

 

Theo bà Nguyễn Thị Hồng, Vụ trưởng Vụ Kế hoạch, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, sau khi Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển sản xuất giống cây trồng nông, lâm nghiệp , giống vật nuôi và giống thủy sản đến năm 2020, Bộ Nông nghiệp đã phối hợp với các bộ, ngành liên quan cùng các địa phương triển khai nhiều hoạt động và đạt được một số kết quả thiết thực.

 

Công tác quy hoạch hệ thống cơ sở nghiên cứu, sản xuất của Chương trình giống đạt được mức tăng khá cao: Tỷ lệ sử dụng giống tiến bộ kỹ thuật trong lĩnh vực chăn nuôi (giống bò thịt và dê tăng từ 45% năm 2011 lên 58% năm 2014); giống tôm sạch bệnh có chất lượng cao sản xuất trong nước tăng từ 51,8% năm 2011 lên 65% năm 2014 (so với mục tiêu năm 2020 là 75%); trong lâm nghiệp 72% giống cung cấp cho trồng rừng được công nhận (mục tiêu năm 2020 là 80%).

 

Tuy nhiên, theo đánh giá chung, công tác giống cũng còn bộc lộ nhiều hạn chế như: hệ thống sản xuất giống chưa đáp ứng được yêu cầu cho sản xuất hàng hóa, hướng mạnh ra xuất khẩu. Giống liến bộ kỹ thuật trong sản xuất lúa thuần ở đồng bằng sông Cửu Long chỉ đạt từ 30 – 40%, ở đồng bằng sông Hồng khoảng 60%. Số lượng giống cây trồng vật nuôi được công nhận nhiều nhưng giống chất lượng và giá trị thương mại cao chưa nhiều. Các đề tài nghiên cứu chọn tạo giống chủ yếu tập trung vào các cây trồng, vật nuôi ngắn ngày. Nguồn lực đầu tư cho nghiên cứu chọn tạo và sản xuất giống chưa đáp ứng được yêu cầu của ngành. Nguồn vốn đầu tư phát triển cho khoa học công nghệ khoảng 50 – 60 tỷ đồng/năm, chỉ đáp ứng được khoảng 30- 35% nhu cầu đầu tư cơ sở vật chất phục vụ nghiên cứu của các Viện. Chương trình giống được bố trí khoảng 500 tỷ đồng vốn đầu tư phát triển/năm cho tất cả các dự án Trung ương và địa phương, mới đáp ứng được khoảng 30% nhu cầu…/.

 

H.Tùng - Mard.
Trở lại      In      Số lần xem: 913

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Hơn 120 quốc gia ký kết Hiệp ước Paris về biến đổi khí hậu
  • Một số giống đậu tương mới và mô hình chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất lúa tại Đông Nam Bộ và Đồng Bằng Sông Cửu Long
  • Các nước cam kết chống biến đổi khí hậu
  • 12 giống hoa được công nhận bản quyền
  • Thảo luận việc quản lý nước theo cơ chế thị trường
  • Lượng nước ngầm trên Trái đất đạt 23 triệu kilômét khối
  • Sản xuất hồ tiêu thế giới: Hiện trạng và Triển vọng
  • Triển vọng tích cực cho nguồn cung ngũ cốc toàn cầu năm 2016
  • Cây trồng biến đổi gen với hai tỷ ha (1996-2015); nông dân hưởng lợi >150 tỷ usd trong 20 năm qua
  • Cơ hội cho gạo Việt
  • Việt Nam sẽ áp dụng cam kết TPP cho thêm 40 nước
  • El Nino có thể chấm dứt vào cuối tháng 6
  • Chi phí-hiệu quả của các chương trình bệnh động vật "không rõ ràng"
  • Xuất khẩu hồ tiêu: Gậy ông đập lưng ông
  • Đất có thể đóng vai trò quan trọng trong việc giảm lượng khí nhà kính
  • Quản lý và phát triển thương hiệu gạo Việt Nam
  • Những cách nổi bật để giải quyết những thách thức về hệ thống lương thực toàn cầu
  • Lập bản đồ các hộ nông dân trồng trọt trên toàn thế giới
  • Hỗ trợ chuyển đổi từ trồng lúa sang trồng ngô
  • Nếu không được kiểm soát, cỏ dại sẽ gây thiệt hại kinh tế tới hàng tỷ USD mỗi năm
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD