Khoa học Đài Loan phát triển ấn tượng
Chủ nhật, 31-08-2014 | 05:49:36
|
||
Sau hai thập kỷ chuyển mình, các cộng đồng khoa học của Đài Loan đã và đang đi từ chỗ hoạt động chậm chạp tới chỗ trở thành các trung tâm nghiên cứu hoạt động sôi động, có tính kết nối, có nhiều tài trợ, thậm chí có nhiều lĩnh vực ở tầm thế giới. Sự thay đổi đó có được là nhờ nền kinh tế mạnh, sự hỗ trợ của chính phủ cho giáo dục và nghiên cứu, và công sức của GS Yuan Tseh Lee - Nobel Hóa học năm 1986.
Xây dựng Viện Academia Sinica
Năm 1986, GS Lee trở thành người Đài Loan đầu tiên đoạt giải Nobel, ông chia sẻ giải Nobel Hóa học với GS Dudley Herschbach và GS John Polanyi “vì những đóng góp trong việc quan tâm tới động lực của các quá trình hóa học cơ bản”. Tám năm sau, khi GS Lee đang là giáo sư tại Đại học California-Berkeley, Tổng thống Đài Loan khi đó, Teng-Hui Lee, đã mời ông trở về quê hương sau hơn 30 năm sống ở Mỹ. GS Lee đã nhận lời mời, và trong vòng 12 năm, ông đảm nhiệm vai trò chủ tịch viện nghiên cứu Academia Sinica của Đài Loan – tổ chức khoa học nhà nước với 30 viện thành viên hoạt động trong các lĩnh vực nhân văn, khoa học xã hội, và khoa học tự nhiên. Ông bảo hộ nghiên cứu khoa học và giáo dục ở mọi cấp độ trên cả nước. “Và để thúc đẩy khoa học ở Đài Loan”, GS Lee nói, “tôi cần làm hai việc. Một là có được tài trợ cho khoa học gia tăng một cách bền vững và hai là mang về các nhà khoa học hàng đầu ở tất cả các lĩnh vực”.
Ngay khi lập ra viện mới (bên trong viện Academia Sinica) hay cần một người điều hành mới, ông đã tới Harvard, MIT, Illinois, Stanford thu hút các nhà khoa học xuất sắc quay trở lại Đài Loan. GS Yuh-Lin Wang, một trong những nhà khoa học từ Mỹ về làm việc ở Viện khoa học Nguyên tử và Phân tử của Academia Sinica năm 1991, sau khi hoàn thành các nghiên cứu tại Đại học Chicago và sau tiến sĩ tại Bell Labs, nói rằng GS Lee đã tạo các điều kiện làm việc giống như Viện Max Planck ở Đức hay Viện Hàn lâm Khoa học của Nga trước khi bị suy giảm vào giai đoạn cuối của chiến tranh lạnh, nên đã thu hút nhiều nhà nghiên cứu hàng đầu, và giúp họ tập trung vào nghiên cứu; nhiều người trong số họ đồng thời đảm nhận các vị trí ở các trường đại học để tăng cường kết nối giáo viên và đại học. Trong thời kỳ GS Lee làm chủ tịch, ngân sách của viện “ở mức dồi dào để có thể hỗ trợ các nghiên cứu chuyên sâu điều hành bởi gần 900 nhà khoa học đầu đàn”. GS Lee cũng đã chiêu mộ nhiều nhà khoa học nước ngoài cho các vị trí trong các trường đại học; ông lập nên một quỹ riêng để hỗ trợ thêm vào tiền lương chính phủ quy định. Lương trả cho các nhà nghiên cứu ở trường đại học chủ yếu đến từ Hội đồng Khoa học Quốc gia (National Science Council), một cơ quan dự định sẽ bị thay thế trong tháng này bởi một Bộ Khoa học và Công nghệ mới. Trong một thập kỷ vừa qua, đã có các chương trình quốc gia – được tài trợ bởi Hội đồng Khoa học Quốc gia và các cơ quan khác – trong các lĩnh vực như viễn thông, công nghệ nano, thiết bị kỹ thuật số, y học di truyền, và năng lượng, với ngân sách thông qua hằng năm từ 30 triệu USD (viễn thông) tới 200 triệu USD (năng lượng). Trong năm 2013, tách biệt với các chương trình quốc gia kể trên, ngân sách hằng năm của Hội đồng Khoa học Quốc gia dành cho vật lý vào khoảng 24 triệu USD; ngân sách này duy trì ổn định từ năm 2009, thời điểm nó bị cắt giảm do sự suy thoái của kinh tế toàn cầu. Nhà đầu tư công nghiệp lớn nhất trong lĩnh vực nghiên cứu và phát triển (R&D) gắn với vật lý là công ty chế tạo bán dẫn Đài Loan (Taiwan Semiconductor Manufacturing Co-TSMC) khi đã chi 1,4 tỷ USD trong năm 2012. Tăng đầu tư cho đại học Các trường đại học cũng có được sự chuyển dịch với sự đầu tư cơ sở hạ tầng từ Bộ Giáo dục, tổng cộng gần 1,7 tỷ USD từ năm 2005 đến năm 2010. Trong thời gian này, GS Maw-Kuen Wu, đồng tác giả khám phá ra chất siêu dẫn ô xít Đồng-Bari-Yttri (YBCO), đang đảm nhiệm vai trò chủ tịch Hội đồng Khoa học Quốc gia; ông nói, “chúng tôi [Hội đồng Khoa học Quốc gia] đã mạnh mẽ đề nghị chính phủ tăng thêm đầu tư cho các trường đại học để có thể cạnh tranh được với Trung Quốc, Singapore, Hong Kong, và Hàn Quốc”. Bảy đại học chủ chốt đã nhận được đầu tư này, theo GS Wu, nhà vật lý trở về Đài Loan năm 1989 từ Đại học Columbia và đang là Chủ tịch Đại học Quốc gia Dong Hwa với 20 năm tuổi nằm ở bờ phía đông của đảo. Do tiền thường được phân bổ đồng đều giữa các nhà khoa học trong các trường đại học Đài Loan, Hội đồng Khoa học Quốc gia đã đặt ra các chính sách mới cùng với ngân sách chặt chẽ hơn, điều đó làm gia tăng các mức cạnh tranh và kéo theo là trình độ khoa học. Tỷ lệ được phê chuẩn của các đề tài dưới 55%, so với 70-80% một thập kỷ trước đó.
Một trong các chính sách của Hội đồng Khoa học Quốc gia là tiền đề tài được sử dụng linh hoạt hơn. Ví dụ, theo GS Hsiu-Hau Lin, nhà vật lý tại Đại học quốc gia Tsing Hua, ngân quỹ cho nguồn nhân lực – sinh viên và trợ lý – và cho chi tiêu thường ngày bây giờ có thể được dùng chung, tiền dự kiến tiêu cho máy móc thiết bị có thể được hoán đổi vào mục đích khác, và tiền cho dự án dài hạn bây giờ không bị nhỏ giọt hằng năm. Hơn nữa, quá trình xét duyệt cho các đề tài giờ đã được minh bạch hơn, theo GS Kao tại Đại học quốc gia Yang-Ming, người trở thành chủ tịch Hội Vật lý Đài Loan trong tháng Một vừa rồi. Tiền cho một đề tài về vật lý lý thuyết trung bình khoảng 30.000 USD một năm, và cho vật lý thực nghiệm trung bình khoảng 60.000 USD, theo GS Lin. Một vài đại học tốt nhất có được tiền tài trợ cao hơn nhiều. GS Mei-Yin Chou, nhà vật lý Đài Loan, người đã sống 30 năm ở Mỹ, hầu hết tại Viện công nghệ Georgia, so sánh sự hỗ trợ nghiên cứu giữa hai nước: “Ở Đài Loan, nếu làm việc tốt, bạn dường như không phải lo lắng về tài trợ. Ở Mỹ, nhiều nhà khoa học giỏi vẫn đang phải cạnh tranh để có được hỗ trợ”. Bà chỉ ra rằng mức tiêu pha cá nhân và các chi phí khác ở Đài Loan thấp hơn, do vậy phần lớn tiền tài trợ được dùng cho nghiên cứu. Theo Tiasang. |
||
Trở lại In Số lần xem: 980 | ||
[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
|