Phần lớn nông hộ trồng Dừa cho chế biến công nghiệp (90,6% số hộ điều tra); giống dừa ta là chủ yếu (68,2%), kế đến là giống dừa xiêm (27,3%); nông dân tự ươm giống (64,2% số hộ điều tra) và mua cây giống từ nông dân khác (31,7% số hộ)là chủ yếu; giống từ hai nguồn này chiếm 93,8% đối với nhóm hộ trồng mới
Nghiên cứu xác định tác nhân gây bệnh cằn mía gốc dựa trên đặc điểm hình thái, sinh hóa và sinh học phân tử. Đánh giá hiện trạng bệnh cằn mía gốc ở miền Đông Nam Bộ và nghiên cứu một số biện pháp phòng trừ trong sản xuất mía giống cơ bản thông qua các thí nghiệm ruộng đồng nhằm xây dựng quy trình phòng trừ bệnh cằn mía gốc trong sản xuất mía giống cơ bản, góp phần thiết lập chương trình sản xuất mía giống sạch bệnh cho các vùng mía nguyên liệu.
Trong lĩnh vực bảo vệ thực vật, ngành hẹp bệnh cây là một trong những môn học quan trọng trong nghiên cứu và giảng dạy bậc đại học và sau đại học. Trong những năm gần đây hiện tượng biến đổi khí hậu ngày càng thể hiện rõ nét thì vấn đề nhóm bệnh siêu vi trùng lại càng nổi lên
Trong những năm gần dây việc nghiên cứu và sử dụng các chế phẩm sinh học bảo vệ thực vật đã được Nhà nước và nhiều cơ quan nghiên cứu khao học quan tâm nhằm góp phần giảm thiểu sử dụng thuốc hóa học tạo ra các sản phẩm nông nghiệp an toàn cho sức khỏe cộng đồng và vệ sinh môi trường. Trên các cây trồng đều cần đến vai trò của thuốc bảo vệ thực vật sinh học.
Cây hồ tiêu là một trong những loại cây trồng nông nghiệp có giá trị xuất khẩu quan trọng ở Việt Nam. Cùng với tiến bộ khoa học kỹ thuật về giống, canh tác tổng hợp, cây hồ tiêu đã đem lại lợi nhuận đáng kể cho ngành trồng và chế biến sản phẩm hạt tiêu xuất khẩu, nhất là các vùng có lợi thế như Đắk Lắk, Đắk Nông, Bà Rịa – Vũng Tàu, Quảng Trị, vv.
Cây hồ tiêu được trồng rộng rãi ở nhiều nước như Brazil, Ấn độ, Việt Nam, Mexico,.. , là một loại cây gia vị có vị trí quan trọng nhất được thương mại quốc tế, chiếm gần 1/3 tổng sản lượng và giá trị.
Mục tiêu của đề tài nghiên cứu ảnh hưởng của chế phẩm thảo dược IAS-2 được bào chế từ cao bột thân lá cây bọ mắm (21,6%), dây cóc (51,2%) và gừng (27,2%) nhằm thay thế kháng sinh trong thức ăn chăn nuôi, đồng thời kích thích tăng trưởng, ngăn ngừa tiêu chảy và bệnh đường hô hấp trên lợn con sau cai sữa
Phytic axit có cấu tạo phân tử là myo-inositol 1,2,3,4,5,6 hexakis dihydro phốt phát (Ins P6), là thành phần chính trong nguồn phốt pho (P) dự trữ của thực vật chiếm khoảng 50-80% phốt pho tổng của hạt (Lott,1984). Ở pH sinh lý phytic axit ở dạng đa ion tích điện âm kèm giữ chặt các khoáng dinh dưỡng tạo phức chất khó tiêu. Hơn nữa, phốt pho ở dạng phytic hay phytate do con người và động vật có cấu tạo dạ dày đơn không thể hấp thu được và khi bài thải ra ngoài gây ô nhiễm môi trường
Độ bạc bụng trên gạo là một tính trạng quan trọng liên quan trực tiếp tới chất lượng hạt và khả năng xuất khẩu của gạo. Tuy nhiên, tính trạng này rất phức tạp do ảnh hưởng đa gien và yếu tố môi trường quyết định. Việc chọn lọc các bố mẹ và cho lai đơn được dựa trên sự di truyền số lượng và tương tác của chỉ số di truyền trong chọn giống.
Việt Nam đã có trên 160 giống cỏ được nghiên cứu làm thức ăn gia súc. Tuy vậy, chỉ có một số ít giống cỏ đã được trồng phổ biến làm đồng cỏ thâm canh thu cắt như cỏ Voi, cỏ Sả, cỏ Paspalum và cỏ Ruzi. Các giống cỏ sử dụng cho mục đích trồng để chăn thả còn rất ít. Trước đây có giống Pangola, gần đây có giống cỏ Jarra và Signal (từ Úc) tỏ ra có triển vọng vì khả năng lấn át các cỏ khác và tồn tại được trong điều kiện khô hạn. Nhu cầu về những giống cỏ có năng suất, chất lượng tốt cho đồng cỏ chăn nuôi gia súc trở nên rất cấp thiết.