Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  14
 Số lượt truy cập :  33455965
Đồng bằng sông Cửu Long cạn phù sa: Nguy cơ khó lường
Thứ năm, 03-12-2015 | 08:21:04

Việc phát triển hồ chứa nước trên thượng nguồn sông Mekong, sẽ dẫn đến thất thoát phù sa ĐBSCL đến 90%

 

ĐBCSL đối diện 3 nguy cơ do thiếu phù sa

 

Trao đổi với Đất Việt, ngày 30/11, TS Hồ Long Phi, Trung tâm quản lý nước và biến đổi khí hậu (ĐH Quốc gia TP.HCM) cho biết các dòng chảy và lượng phù sa ở ĐBSCL phụ thuộc vào dòng chảy của lưu vực sông Mekong.

 

Theo dự kiến, trong tương lai có 120 hồ chứa thủy nông trên khắp khu vực sông Mekong ở phía thượng lưu với dung tích trên 100 tỉ m3 nước, trong đó, một số ít nằm trên sông chính còn lại được phân bố rải rác, nhiều nhất là ở Lào, một số ít ở Campuchia, Thái Lan.

 

Ông Phi khẳng định: "Nếu như tính toán thông qua các mô hình thì việc phát triển hồ chứa nước trên thượng nguồn sông Mekong trong khoảng thời gian 20-30 năm nữa, sẽ dẫn đến thất thoát phù sa khoảng 90%.

 

Trong khi, thực tế hiện nay đã thất thoát khoảng 50%, nếu như trên vùng thượng lưu vẫn tiếp tục phát triển hồ chứa, sẽ phải đối diện với 3 nguy cơ: Thứ nhất, mất đi phù sa dẫn đến thiếu phân bón; thứ hai, gia tăng khả năng gây xói mòn của dòng chảy, vì khi ít phù sa thì dòng chảy sẽ có xu hướng bào mòn 2 bên bờ đề bù đắp lại, làm gia tăng sạt lở bờ sông; thứ ba, phù sa không bù đắp được cho ngập úng, làm cho tác hại càng trầm trọng hơn".

 

Nói rõ hơn về sự khác biệt giữa hồ chứa thuỷ nông và đập thủy điện, theo ông Phi, đập thuỷ điện lấy nước để phát điện và sẽ hoàn trả lại, còn hồ chứa thuỷ nông giữ nước để tưới tiêu và bị bốc hơi nên không có hoàn trả, làm cho lượng phù sa bị mất nhiều.

 

Hiện nay, đập thuỷ nông có tác hại lớn nhưng không ai chú ý tới bởi vì nó nhỏ, nhưng không nằm trên nhánh chính, hiện nay, đa số chỉ phản đối xây dựng đập thuỷ điện mà quên đi những tác động của hồ chứa thuỷ nông.

 

Dong bang song Cuu Long can phu sa: Nguy co kho luong

Lượng phù sa của ĐBSCL đối diện với nguy cơ ngày càng giảm

 

Ông Phi cho biết thêm: "Nước nào cũng có kế hoạch phát triển kinh tế của riêng mình và ít nhất trong tương lai, biến đổi khí hậu thì nguồn nước mùa khô càng ngày càng khan hiếm, nên các nước phải tăng cường đẩy mạnh việc xây dựng hồ chứa nước. Điều này, dẫn đến nguy cơ hạn hán đối với ĐBSCL vài chục năm tới là nhìn thấy rõ.

 

Chính vì thế, chúng ta không thể đợi chờ vào kết quả của những buổi đàm phán, thảo luận vì hiệu quả không cao, do các nước đều đặt lợi ích lên trên. Việt Nam phải chủ động, đưa ra các giải pháp, cố gắng thích nghi, hạn chế tác hại.

 

Giải pháp cục bộ là giảm bớt tác hại thông qua việc hạn chế khai thác cát, tiến tới ngừng khai thác cát ở ĐBSCL, vì việc làm này có tác hại gấp nhiều lần với tác hại của lượng phù sa mất đi.

 

Bên cạnh đó là phải có giải pháp khai thác và giữ được phù sa càng nhiều càng tốt, bởi vì hiện nay lượng phù sa nhiều nhưng ở dòng sông đổ ra biển chứ mình thu thập được ở lòng sông".

 

Thiếu phù sa không chỉ do vùng thượng lưu xây dựng nhiều hồ chứa

 

Trong khi đó, trước những thông tin về việc ĐBSCL thiếu lượng phù sa trong thời gian tới, chuyên gia nông nghiệp GS.TS Võ Tòng Xuân cho hay: "Sông Mekong dài 4000 km, hiện nay, lượng nước, lượng phù sa rơi xuống suốt chiều dài ĐBSCL, trải dài trên một diện tích rất lớn.

 

Trong đó, phần ở trên thượng nguồn Tây Tạng xuống Vân Nam (Trung Quốc) phần lớn nước là từ các băng tuyết tan ra rồi đi xuống. Còn lượng nước rơi trên ĐBSCL, chủ yếu là lượng mưa từ Lào, Campuchia, Thái Lan, đưa xuống dòng sông, đi qua nhiều thác ghềnh, nhất là hạ Lào rồi mới xuống đến Tây Nam Bộ (Việt Nam).

 

Chúng ta hiện nay mưa nhiều, nước đọng lại là do khúc sau của dòng sông Mekong đọng lại. Phù sa cũng vậy, nếu đi lên khu vực Bắc Lào sẽ thấy rừng khu vực này đã bị khai thác rất nhiều, cho nên phù sa đưa xuống cho Việt Nam ngày càng ít đi".

 

Thế nhưng, một phần cũng do chính người dân của chúng ta làm lượng phù sa giảm mạnh, hiện nay, rất nhiều cánh đồng của chúng ta ở Tây Nam Bộ không có phù sa vào, là do con người. Tại vì muốn làm 3 vụ lúa, nên người dân đắp đê cao, không cho nước, không cho phù sa vào, thành ra chính bản thân chúng ta cũng đang là một tác nhân, chứ không hoàn toàn do thượng nguồn.

 

10 ngàn năm trước, các nhà địa chất học, phát hiện lượng phù sa cổ nằm ở biên giới Campuchia rất nhiều, hiện nay, lấn xuống vùng Đồng Tháp Mười một ít, còn lại thì toàn là phù sa mới. Bởi vì, trong suốt 10 ngàn năm, nước biển dâng, rồi biển lùi, xong biển dâng trở lại, mỗi lần biển dâng, biển lùi ngàn năm hoặc mấy trăm năm, lại làm bờ biển mới.

 

Ngày nay rất rõ ràng, hiện tượng bồi vẫn còn tiếp tục, ví dụ như giữa sông Tiền, sông Hậu mỗi ngày vẫn bồi ra một ít, nhưng đồng thời dòng hải lưu đánh vào trong bờ biển của chúng ta, có những chỗ bị khuyết, bị xói mòn.

 

Ông Xuân cho rằng: "Lượng phù sa thì có thể cân đối, nhưng lượng nước của chúng ta thì sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. 15 năm trở lại đây có ảnh hưởng, mực nước cao nhất của ĐBSCL xấp xỉ trên dưới 4m, năm nào lụt thì phải 4,5m, nhưng trong vòng 15 năm trở lại đây thì mực nước nó chỉ còn 3-3,5m.

 

Năm nay, mực nước chỉ còn 2,5m, có nghĩa lượng nước đã giảm xuống rất nhiều. Nếu không có biện pháp đảm bảo nguồn nước thì sắp tới nguồn nước xuống ĐBSCL sẽ cạn kiệt không đáp ứng đủ cho phát triển nông nghiệp. Theo tôi, đây mới là vấn đề đáng quan ngại nhất".

 

Đồng bằng sông Hồng: Thụ động đón lũ và nguồn nước

 

Về phía ĐBSH, PGS.TS Phạm Thị Hương Lan - Trưởng Khoa Thủy văn và Tài nguyên nước - ĐH Thủy Lợi cho biết nguồn nước của lưu vực sông Hồng chịu sự tác động khá lớn các hồ chứa thủy điện của Trung Quốc.

 

“Bắt đầu từ năm 2008 ở sông Đà và năm 2010 ở sông Thao, các hồ chứa thủy điện đã thay đổi dòng chảy phía hạ lưu. Nó cũng thay đổi chế độ bùn cát, gây sạt lở, bồi lắng lòng dẫn hạ du, ảnh hưởng đến hệ sinh thái”.

 

Đặc biệt, sau vụ việc, Trung Quốc đột ngột xả nước, gây lũ lụt tại Lào Cai tháng 10 vừa qua là minh chứng rõ ràng cho việc Việt Nam đang thụ động về nguồn nước.

 

Bên cạnh đó, phù sa của ĐBSH khác với ĐBSCL, phù sa sông Hồng sau phần hạ lưu hồ chứa sẽ giữ lại một lượng bùn cát nhất định, vì thế lòng dẫn phía hạ lưu đập phải đào xới một số đoạn để cân bằng lượng bùn cát.

 

Chính vì thế, lượng bùn cát bị xói mòn sẽ vận chuyển về phía hạ lưu, gây ra bồi lắng, dẫn đến hiện tượng khai thác cát quá mức, dẫn đến xói lở.

 

Đối với ĐBSH, hạn chế vấn đề khai thác cát là vấn đề cần quan tâm lớn nhất hiện nay. Hơn nữa, Thủ tướng Chính phủ cũng đã đưa ra quy trình vận hành liên hồ chứa hệ thống các hồ chứa Việt Nam, đảm bảo vấn đề an toàn hồ chứa, phòng chống lũ lụt phía hạ lưu, đảm bảo cấp nước mùa kiệt.

 

Nếu thực hiện được thì vẫn giải quyết được khi thời tiết bình thường, còn thời tiết cực đoan, mưa lũ lớn bất thường gia tăng, thì cần phải có dự báo, giải pháp.

Châu An - Baodatviet.

Trở lại      In      Số lần xem: 3932

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Hơn 120 quốc gia ký kết Hiệp ước Paris về biến đổi khí hậu
  • Một số giống đậu tương mới và mô hình chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất lúa tại Đông Nam Bộ và Đồng Bằng Sông Cửu Long
  • Các nước cam kết chống biến đổi khí hậu
  • 12 giống hoa được công nhận bản quyền
  • Thảo luận việc quản lý nước theo cơ chế thị trường
  • Lượng nước ngầm trên Trái đất đạt 23 triệu kilômét khối
  • Sản xuất hồ tiêu thế giới: Hiện trạng và Triển vọng
  • Triển vọng tích cực cho nguồn cung ngũ cốc toàn cầu năm 2016
  • Cây trồng biến đổi gen với hai tỷ ha (1996-2015); nông dân hưởng lợi >150 tỷ usd trong 20 năm qua
  • Cơ hội cho gạo Việt
  • Việt Nam sẽ áp dụng cam kết TPP cho thêm 40 nước
  • El Nino có thể chấm dứt vào cuối tháng 6
  • Chi phí-hiệu quả của các chương trình bệnh động vật "không rõ ràng"
  • Xuất khẩu hồ tiêu: Gậy ông đập lưng ông
  • Đất có thể đóng vai trò quan trọng trong việc giảm lượng khí nhà kính
  • Quản lý và phát triển thương hiệu gạo Việt Nam
  • Những cách nổi bật để giải quyết những thách thức về hệ thống lương thực toàn cầu
  • Lập bản đồ các hộ nông dân trồng trọt trên toàn thế giới
  • Hỗ trợ chuyển đổi từ trồng lúa sang trồng ngô
  • Nếu không được kiểm soát, cỏ dại sẽ gây thiệt hại kinh tế tới hàng tỷ USD mỗi năm
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD