Lấy nông dân làm chủ thể của tái cơ cấu nông nghiệp
Thứ sáu, 12-05-2017 | 08:31:35
|
Mọi đổi mới kinh tế - xã hội đều bắt đầu từ con người và chỉ khả thi khi nền tảng văn hóa của con người sẵn sàng cho sự đổi mới ấy. Vì vậy, cách tiếp cận của Đồng Tháp trong tái cơ cấu nông nghiệp bắt đầu từ việc thay đổi ý thức và tầm nhìn của cộng đồng.
Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Đồng Tháp Lê Minh Hoan cho rằng: Chiến lược mưa dầm thấm lâu hướng vào người nông dân là điều phù hợp và có ý nghĩa thực chất nhất. Ông thường dành thời gian đến các hội quán và nói chuyện với người dân hàng tiếng đồng hồ về sản xuất sạch, có định hướng tới thị trường.
Toàn tỉnh Đồng Tháp hiện đang có 140 nghìn hecta làm lúa vụ ba, chiếm 28% tổng diện tích trồng lúa của tỉnh. Lúa vụ ba ở Đồng bằng Sông Cửu Long gắn liền với hệ thống bờ bao ngăn lũ được xây dựng mà hậu quả là cũng ngăn luôn cả phù sa. Sau vài năm liên tục gánh ba vụ lúa mỗi năm, đất bị vắt kiệt sự màu mỡ, đồng thời việc kéo dài liên tục các vụ lúa khiến sâu bệnh nở rộ. Không cách nào khác, người nông dân phải tăng phân bón và thuốc trừ sâu, nhưng làm cách nào thì hạt lúa cũng không thể thơm ngon như trước. Như vậy chi phí đội lên trong khi chất lượng, giá trị hạt gạo và mức độ an toàn giảm, khiến lợi nhuận giảm theo và rủi ro cao hơn cho người tiêu dùng cũng như môi trường sinh thái. Tình trạng bất cập – nếu không muốn nói là nhức nhối – này đã lặp đi lặp lại qua nhiều năm.
Ông Nguyễn Văn Trãi (bìa trái), Giám đốc Hợp tác xã Tân Cường trao đổi với Tia Sáng: “Doanh nghiệp ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm thì nhiều, nhưng thực sự thực hiện được hợp đồng thì không có bao nhiêu”.
Giải pháp duy nhất khả dĩ tháo gỡ bế tắc về lúa ba vụ, theo ông Nguyễn Thành Tài, PGĐ Sở NN&PTNT Đồng Tháp, là xen một vụ màu vào giữa hai vụ lúa. Việc cắt giảm một vụ lúa như vậy sẽ giúp loại bớt sâu bệnh cho cây lúa và cho phép đất được nghỉ ngơi để phục hồi phần nào. Tuy nhiên, trong số 140 nghìn hecta trồng lúa vụ ba, hiện nay mới chỉ có 25 nghìn hecta là đã thay một vụ lúa bằng một vụ màu, ông Tài cho biết. Để có thể mở rộng diện tích trồng màu với 115 nghìn hecta lúa vụ ba còn lại, người nông dân cần có nhiều kênh tiêu thụ ổn định. Như vậy, bản chất sự bế tắc về lúa ba vụ không chỉ là vấn đề nhận thức của người nông dân, mà quan trọng hơn là tìm đầu ra ổn định cho hoa màu được trồng thay thế cho vụ lúa thứ hai trong năm.
Tất cả những nỗ lực ấy của ông Hoan phục vụ cho chiến lược mà ông gọi là mưa dầm thấm lâu. Nó không hào nhoáng với các ngôn từ như đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao, thúc đẩy hợp tác ba nhà – bốn nhà, v.v. mà nhiều vị lãnh đạo, chuyên gia khác vẫn thường nói trong các hội nghị về chủ đề tái cơ cấu nông nghiệp. Mặc dù Đề án tái cơ cấu nông nghiệp của Đồng Tháp cũng đề cập rất đầy đủ vai trò của các mắt xích doanh nghiệp, hợp tác xã, khu nông nghiệp công nghệ cao,…, nhưng trao đổi với chúng tôi, dường như ông Lê Minh Hoan cho rằng chiến lược mưa dầm thấm lâu hướng vào người nông dân là điều phù hợp và có ý nghĩa thực chất nhất. Phải trực tiếp đến Đồng Tháp, chúng ta mới hiểu rõ căn nguyên của cách nhìn này.
Trung tâm Ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao của tỉnh đã thực hiện thành công kỹ thuật nhân nhanh một số giống hoa kiểng mới, lạ ở vùng ôn đới như: hoa đồng tiền, hoa ly, hoa chuông... cung cấp cho nhà vườn trồng hoa tại TP. Sa Đéc.
Bao trái xoài là một kỹ thuật để bảo vệ trái xoài từ khi được 40 ngày tuổi cho đến lúc thu hoạch, đảm bảo trái xoài không có thuốc và chín đều, vỏ đẹp, không có vết. Đây cũng là một điều kiện cần để nhà vườn đạt Global Gap. 80% nhà vườn ở Đồng Tháp sử dụng kỹ thuật này. Ảnh: dungcunongnghiep.com.
Về phía người nông dân, tỉnh đã có những nỗ lực thúc đẩy cơ giới hóa các khâu sản xuất, chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật (ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất lúa hữu cơ, thí điểm sử dụng phân bón thông minh, ứng dụng chế phẩm sinh học nấm xanh Ometar trong phòng trừ rầy nâu…), tổ chức lại quy trình sản xuất xoài nhằm đảm bảo đáp ứng các tiêu chuẩn GlobalGAP, VietGAP… Trung tâm Ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao của tỉnh đã thực hiện thành công kỹ thuật nhân nhanh một số giống hoa kiểng mới, lạ ở vùng ôn đới như: hoa đồng tiền, hoa ly, hoa chuông... cung cấp cho nhà vườn trồng hoa tại TP. Sa Đéc, góp phần hình thành thương hiệu “Thành phố Hoa Sa Đéc” trong bản đồ du lịch Việt Nam.
Trong bối cảnh mối liên kết với các doanh nghiệp chưa khăng khít, người nông dân phải tiêu thụ sản phẩm qua những kênh trôi nổi bấp bênh. Điều đó khiến việc làm nông nghiệp sạch là điều khó khả thi bởi chi phí đầu tư cao mà đầu ra lại không đảm bảo. Hi hữu cũng có một số người bỏ tiền của, công sức để làm nông sản hữu cơ, chấp nhận trước mắt bán cho thương lái với giá chỉ tương đương với các nông sản khác và kiên nhẫn chờ đợi cho tới khi tìm được kênh tiêu thụ với giá thành tương xứng với công sức, chi phí bỏ ra. Tuy nhiên, do phân khúc thị trường nông sản hữu cơ còn rất hẹp nên đây là con đường đầy khó khăn và rủi ro mà số đông người nông dân khó chấp nhận.
Nhưng phần lớn các mô hình trên chưa mang lại ảnh hưởng trên quy mô rộng. Bà con nông dân còn dè dặt trong áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới, một phần do không tuân thủ đúng quy trình kỹ thuật được hướng dẫn vì họ tin vào những kinh nghiệm và thói quen truyền thống. Nhưng nguyên nhân lớn hơn, như chia sẻ từ ông Nguyễn Thanh Hùng, Phó Giám đốc Trung tâm ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao, đó là người nông dân chỉ dám mạnh dạn áp triển khai thực hiện khi có kết quả thực tiễn từ mô hình thí điểm cho thấy mang lại gia tăng lợi nhuận một cách rõ rệt. Hay nói cách khác, người nông dân chỉ tin vào KH&CN khi được đảm bảo tiêu thụ đầu ra. Điều này đã được thực tiễn chứng minh với thành công của ngành cá tra: đây là ngành đảm bảo đầu ra một cách ổn định nhất, đồng thời cũng là ngành bà con nông dân tuân thủ các quy chuẩn kỹ thuật một cách nghiêm túc nhất, với trên 95% vùng nuôi được chứng nhận sản xuất an toàn.
Xoài Cao Lãnh là một trong những sản phẩm nông nghiệp hiếm hoi của Đồng Tháp có chỉ dẫn địa lý, có thương hiệu và đóng gói bao bì một cách khá bài bản. Ảnh: VGP/Quang Hiếu
Tuy nhiên, trên thực tế đa số các hợp tác xã chưa đáp ứng được những kỳ vọng này, chủ yếu do năng lực quản trị và tiềm lực kinh tế còn hạn chế. Tiềm lực kinh tế chưa đủ nên các hợp tác xã chưa cung ứng được nhiều dịch vụ và không san sẻ được nhiều rủi ro cho nông dân. Nằm trong số các hợp tác xã có tiềm lực mạnh hàng đầu của tỉnh nhưng hợp tác xã Tân Cường chỉ có thể mua lúa gạo tạm trữ cho nông dân trong thời gian ba tháng. “Để có thể bảo quản trong thời gian lâu dài hơn sẽ phải đầu tư tới vài trăm tỷ đồng, điều đó là quá sức với một hợp tác xã”, ông Nguyễn Văn Trãi, Giám đốc HTX Tân Cường chia sẻ. Đó là lý do Bí thư Lê Minh Hoan và các nhà quản lý ở Đồng Tháp quyết tâm đổi mới tư duy, nhận thức người nông dân, cho dù phải theo cách tiếp cận mưa dầm thấm lâu. Những hội quán lần lượt hình thành ở các xã, do người dân tự lập ra theo nhu cầu của cộng đồng và hoạt động vì mục tiêu tự thân của cộng đồng, có thể coi là tín hiệu tích cực cho thấy cách tiếp cận ấy của những người lãnh đạo Đồng Tháp bước đầu đã có kết quả.
Để đảm bảo đầu ra cho nông sản, chúng ta thường trông chờ vào những doanh nghiệp lớn, đủ tiềm lực để gánh bớt một phần rủi ro từ thị trường cho nông dân. Nhưng thực tiễn từ Đồng Tháp cho thấy điều ấy là bất cập, bởi những doanh nghiệp giàu tiềm lực như vậy không nhiều và thường chỉ tập trung trong một số ngành hàng nhất định. Vì vậy, vấn đề mấu chốt mà các chuyên gia, nhà hoạch định chính sách cần quan tâm là xây dựng một sân chơi phù hợp, cho phép những doanh nghiệp hay các hợp tác xã có tiềm lực vừa phải cũng có thể san sẻ bớt rủi ro cho người nông dân một cách hiệu quả. Ví dụ: một số địa phương có thể bàn bạc với cộng đồng các doanh nghiệp, hợp tác xã để chung sức xây dựng kho bảo quản sau thu hoạch ở một vị trí đảm bảo tính tối ưu trong lưu thông cho cả vùng, sau đó cho các doanh nghiệp và hợp tác xã thuê lại từng phần theo mức giá phải chăng, với diện tích lớn nhỏ tùy theo nhu cầu, năng lực của họ. Như vậy, nông sản có thể được tạm trữ với thời gian dài hơn, giúp bảo vệ tốt hơn quyền lợi của người bán trước những biến động thị trường. Một ví dụ khác là nghiên cứu chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho hình thành các sàn giao dịch điện tử trong nông nghiệp, qua đó đảm bảo hàng hóa và các tài nguyên được mua bán, thuê mướn một cách linh hoạt, minh bạch và tối ưu, các giao dịch diễn ra trên tinh thần cạnh tranh lành mạnh, có khả năng truy xuất và quy trách nhiệm, giảm thiệu sự thao túng, độc quyền và những gian lận, phá vỡ hợp đồng – sàn giao dịch điện tử cũng có thể là công cụ để các nhà quản lý thường xuyên cập nhật giá cả và có nguồn dữ liệu cần thiết phục vụ dự báo thị trường.
Cách tiếp cận như vậy đòi hỏi một nhìn nhận khác về thực tiễn trong nông nghiệp. Chúng ta đã chuyển đổi từ sản xuất nông nghiệp sang làm kinh tế trong nông nghiệp, từ chú trọng sản lượng sang chú trọng lợi nhuận, nhưng trên thực tế không ai có thể tự định đoạt lợi nhuận nếu giá cả biến động ngoài khả năng dự đoán. Khi ấy, người ta chỉ có thể tối ưu hóa lợi nhuận mà họ kỳ vọng sẽ xảy ra. Bởi vậy, trong thực tiễn nông dân vẫn chạy theo sản lượng, điều ấy không phải do sự lệch lạc trong nhận thức, mà trái lại đó là một tính toán có cân nhắc, rằng ngay cả trong kịch bản xấu nhất khi bán không được giá thì ít ra còn có sản lượng bù lại. Phương thức ấy có thể không cho ra lợi nhuận thực tế cao nhất, nhưng có thể là lựa chọn được kỳ vọng là bảo vệ lợi ích một cách tốt nhất cho nông dân tại thời điểm khi họ buộc phải đưa ra quyết định trong điều kiện thị trường nhiều rủi ro và thiếu thông tin.
Thực tiễn từ Đồng Tháp cho thấy hoạt động nghiên cứu và chuyển giao các tiến bộ KH&CN trong nông nghiệp ở các cơ sở khoa học công lập địa phương cần theo sát định hướng từ thị trường, bởi người nông dân chỉ chấp nhận áp dụng những tiến bộ KH&CN đã chứng minh được rõ rệt khả năng thương mại hóa. Vì vậy, theo quan điểm của Sở KH&CN Đồng Tháp, việc triển khai thương mại hóa các kết quả nghiên cứu cần được đẩy mạnh để có thể chứng minh tính hiệu quả với nông dân. Một số khuyến nghị cụ thể như sau: Sửa đổi quy định về việc quản lý tài sản và chuyển giao kết quả nghiên cứu của Thông tư liên tịch số 16/2015/TTLT-BKHCN-BTC ngày 01 tháng 09 năm 2015 để cho phép kết quả của các đề tài nghiên cứu sử dụng kinh phí nhà nước được giao cho đơn vị chủ trì và tổ chức có khả năng thương mại hóa kết quả nghiên cứu mà không thu hồi kinh phí. Tăng cường yêu cầu tự chủ đối với các cơ sở KH&CN thuộc Sở, bằng cách sửa quy định về cơ cấu các tổ chức tham mưu, tổng hợp và số lượng đơn vị sự nghiệp thuộc Sở của Thông tư liên tịch số 29/2014/TTLT-BKHCN-BNV ngày 15 tháng 10 năm 2014 theo hướng tinh gọn, giảm đầu mối tổ chức tham mưu, tổng hợp; quy định cứng đơn vị sự nghiệp thuộc Sở theo xu hướng tự chủ, cấp kinh phí theo nhiệm vụ thực tế. Đổi mới cơ chế, giải pháp để rút ngắn thời gian đăng ký, cấp chứng nhận quyền sở hữu công nghiệp. Ban hành quy định về hỗ trợ nghiên cứu ứng dụng đối với “nhà khoa học chân đất” để khơi dậy và đưa những kết quả nghiên cứu, sáng tạo không chuyên phục vụ thiết thực sản xuất và đời sống. Thông tin với địa phương về các nhiệm vụ KH&CN cấp nhà nước đã đề xuất, được phê duyệt thực hiện trên địa bàn để biết phối hợp triển khai.
Phạm Trần Lê - Tiasang.
|
Trở lại In Số lần xem: 1123 |
[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
|