Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  15
 Số lượt truy cập :  33464176
Phương thức chuyển đổi viện nghiên cứu sang tự chủ
Thứ tư, 25-03-2015 | 08:17:07

Chất lượng nghiên cứu và phát triển của Hàn Quốc
đã có bước tiến bộ rõ rệt khi nước này từ năm 1999
đã có cơ chế tài trợ dựa trên hiệu quả hoạt động
của các viện nghiên cứu. Ảnh: Học viện KAIST.
Nguồn: Chosun.com
Tại Hội nghị toàn quốc về thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức khoa học ông lập, bà Keiko Sato, Phó giám đốc Nhóm Ngân hàng Thế giới đã đưa ra kinh nghiệm cải cách của các viện R&D tại các nước thuộc khu vực Châu Âu và Trung Á (ECA).

 

Từ một điểm xuất phát chung


Trong lĩnh vực nghiên cứu và phát triển, các nước đang phát triển ở Châu Âu và Trung Á có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam như: Tỉ lệ giữa đầu tư cho nghiên cứu và phát triển và GDP thấp, nhà nước gần như nắm độc quyền trong lĩnh vực khoa học và công nghệ và phần lớn kinh phí nghiên cứu dành cho R&D đến từ ngân sách nhà nước, cán bộ nghiên cứu cũng là công chức, viên chức.

Từ một nền khoa học được kế hoạch hóa tập trung như vậy nên hoạt động R&D của các viện nghiên cứu của các nước ECA không gắn liền với doanh nghiêp, không có sự tham gia của doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp tư nhân vào quá trình ra quyết định chiến lược phát triển KH&CN nên các sản phẩm nghiên cứu ứng dụng không đáp ứng được nhu cầu sản xuất hoặc thị trường. Chính vì vậy, khi bước vào giai đoạn tái cấu trúc hệ thống các viện nghiên cứu, không chỉ giảm quy mô và số lượng của các tổ chức nghiên cứu mà còn thay đổi cơ chế quản lí từ nhà nước bao cấp sang tư nhân hóa, các viện này phải đối mặt với nhiều khó khăn. Trong đó, nổi bật là sự thiếu hụt về kinh nghiệm thị trường và thiếu một thế hệ các nhà khoa học trẻ năng động bởi đa số họ rời bỏ vị trí tại các nước ECA để làm việc tại các nước Tây Âu hoặc Mỹ trong khi bộ máy quản lí tại các viện nghiên cứu này đã trở nên “lỗi thời” (hầu hết các nhà quản lí khoa học đã quá 50 tuổi và được đào tạo từ nền giáo dục thời Xô-viết).

Minh bạch hóa và thương mại hóa

Một trong những cách giảm quy mô và số lượng của các viện nghiên cứu được áp dụng là sáp nhập các tổ chức nghiên cứu vào hệ thống các trường đại học. Ví dụ như Estonia (hiện nay đang đứng thứ 25/142 thế giới về chỉ số đổi mới sáng tạo) đã đóng cửa hầu hết viện nghiên cứu trực thuộc Xô-viết trước kia (23 viện), ngoại trừ các viện nghiên cứu về hai lĩnh vực thế mạnh của nước này là nông nghiệp và năng lượng. 17 Viện Hàn lâm được sáp nhập vào bốn trường đại học. Hiện nay, nước này chỉ có bảy viện nghiên cứu công lập. Còn tại Cộng hòa Séc, tất cả các viện nghiên cứu công nghiệp được chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn và sau được tư nhân hóa hoàn toàn vào giữa những năm 1990, gắn liền với nhu cầu thị trường và cung cấp những dịch vụ phi nghiên cứu.

Việc công khai, minh bạch việc hỗ trợ ngân sách nhà nước cho nghiên cứu khoa học là điều đảm bảo cho kết quả chuyển đổi các viện nghiên cứu được triển khai một cách bền vững. - Bà Keiko Sato, Phó giám đốc Nhóm Ngân hàng Thế giới

 

Qua kinh nghiệm của những viện nghiên cứu tại các nước đang phát triển ở Châu Âu và Trung Á, báo cáo của Ngân hàng Thế giới đưa ra phương thức chuyển đổi bốn nhóm tổ chức khoa học như sau:

Với những viện nghiên cứu có đầu ra là sản phẩm công ích nên được điều hành theo cơ chế: nhà nước sở hữu và ký hợp đồng điều hành. Theo đó, Chính phủ sẽ ký hợp đồng với một tổ chức bên ngoài để điều hành viện nhưng vẫn duy trì quyền sở hữu.

Với những viện nghiên cứu có đầu ra là các sản phẩm phi công ích, việc tư nhân hóa là điều tối cần thiết bởi viện sẽ được tiếp cận với thị trường và sau đó sẽ được chuyển đổi thành công ty thương mại hoàn toàn

Với những viện nghiên cứu có đầu ra bao gồm cả sản phẩm công ích và phi công ích nhưng khả năng tiếp cận thị trường hạn chế và không có mấy cơ hội “sống sót” như một công ty tư nhân, có thể chuyển đổi thành một tổ chức phi chính phủ hoặc tư nhân hóa nội bộ thay vì đóng cửa.

Với những viện nghiên cứu cần phải đóng cửa, kêu gọi tư nhân hóa có thể được dùng như một phép thử với thị trường.

Bà Keiko Sato nhấn mạnh phải công khai, minh bạch việc sử dụng ngân sách nhà nước cho nghiên cứu khoa học bởi đây là điều đảm bảo cho kết quả chuyển đổi các viện nghiên cứu được triển khai một cách bền vững. Chất lượng nghiên cứu và phát triển của Hàn Quốc đã có bước tiến bộ rõ rệt khi nước này từ năm 1999 đã có cơ chế tài trợ dựa trên hiệu quả hoạt động của các viện nghiên cứu qua các công cụ kiểm tra, đối chiếu thông qua sự tham gia của tư nhân, giới học thuật, tổ chức xã hội dân sự và chuyên gia nước ngoài để đảm bảo quá trình đưa ra quyết định không bị ảnh hưởng bởi hành vi tham nhũng và các nhóm lợi ích.


Bà cũng đưa ra sáu lưu ý mà các viện cần ghi nhớ khi thực hiện chuyển đổi các tổ chức nghiên cứu KH&CN sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm, đó là:

Cần xác định số liệu tài chính chính xác về tổ chức nghiên cứu để có thể dự báo khả năng sinh lời, phát triển của viện sau khi tái cấu trúc (bởi các viện nghiên cứu thường khai tăng số liệu tài chính như giá trị tài sản, đặc biệt là tài sản trí tuệ, số liệu lợi nhuận…để được định giá cao)

Chất lượng và mức độ cạnh tranh của những công nghệ mà viện nghiên cứu đang sở hữu phải được thẩm định bởi các chuyên gia độc lập bên ngoài, những người hiểu rõ không chỉ về công nghệ hiện thời mà còn cả về thị trường.

Nhóm cán bộ thực hiện việc cải cách cơ chế của viện cần được trao quyền để quản lý toàn bộ quá trình chuyển đổi (chứ không chỉ những nội dung liên quan đến chuyên môn kĩ thuật).


Không nên đặt ra những mục tiêu quá tham vọng. Hơn nữa, nó cũng không thực tế khi kì vọng những kết quả đáng kể sẽ diễn ra trong một thời gian ngắn, ít nhất thông thường phải mất từ bốn đến năm năm mới nhận thấy tiến triển.

Cần thống nhất một quy trình giám sát và báo cáo rõ ràng.

Truyền thông tích cực về chương trình chuyển đổi.


Hảo Linh - Tiasang.

Trở lại      In      Số lần xem: 1046

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Hơn 120 quốc gia ký kết Hiệp ước Paris về biến đổi khí hậu
  • Một số giống đậu tương mới và mô hình chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất lúa tại Đông Nam Bộ và Đồng Bằng Sông Cửu Long
  • Các nước cam kết chống biến đổi khí hậu
  • 12 giống hoa được công nhận bản quyền
  • Thảo luận việc quản lý nước theo cơ chế thị trường
  • Lượng nước ngầm trên Trái đất đạt 23 triệu kilômét khối
  • Sản xuất hồ tiêu thế giới: Hiện trạng và Triển vọng
  • Triển vọng tích cực cho nguồn cung ngũ cốc toàn cầu năm 2016
  • Cây trồng biến đổi gen với hai tỷ ha (1996-2015); nông dân hưởng lợi >150 tỷ usd trong 20 năm qua
  • Cơ hội cho gạo Việt
  • Việt Nam sẽ áp dụng cam kết TPP cho thêm 40 nước
  • El Nino có thể chấm dứt vào cuối tháng 6
  • Chi phí-hiệu quả của các chương trình bệnh động vật "không rõ ràng"
  • Xuất khẩu hồ tiêu: Gậy ông đập lưng ông
  • Đất có thể đóng vai trò quan trọng trong việc giảm lượng khí nhà kính
  • Quản lý và phát triển thương hiệu gạo Việt Nam
  • Những cách nổi bật để giải quyết những thách thức về hệ thống lương thực toàn cầu
  • Lập bản đồ các hộ nông dân trồng trọt trên toàn thế giới
  • Hỗ trợ chuyển đổi từ trồng lúa sang trồng ngô
  • Nếu không được kiểm soát, cỏ dại sẽ gây thiệt hại kinh tế tới hàng tỷ USD mỗi năm
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD