Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  74
 Số lượt truy cập :  34082063
Tái cơ cấu nông nghiệp ở ĐBSCL: Bối cảnh mới, xâu kết chuỗi, liên kết vùng*
Thứ năm, 20-10-2016 | 08:45:04

Nguyễn Ngọc Trân**


Tám tháng đầu năm 2016, nông nghiệp Việt Nam tăng trưởng âm. Lượng gạo xuất khẩu, mặt hàng chủ lực của Việt Nam (mà cũng của ĐBSCL vì đồng bằng chiếm 90% kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này), năm 2016 được điều chỉnh dưới 6 triệu tấn. Nhưng đáng lo hơn là giá gạo xuất khẩu tiếp tục giảm và thấp "đội sổ".

Hạn mặn ở ĐBSCL. Nguồn: TTXVN

Biến đổi khí hậu là lý do thường được viện dẫn. Không sai. Nhưng có phải chỉ có thế?

 

Tái cơ cấu nông nghiệp ĐBSCL nhưng phải đặt nó trong bối cảnh các thách thức mà đồng bằng đang phải đối mặt. Phân tích sâu những điểm yếu của nông nghiệp ở đồng bằng sẽ thấy rất nhiều vấn đề cần giải quyết, trong đó nằm trong tầm tay của Nhà nước Việt Nam là  xâu kết chuỗi giá trị các ngành hàng nông sản, và  liên kết phát triển vùng.

 

I. Bối cảnh mới 

 

ĐBSCL đang đối diện với hai thách thức toàn cầu là  biến đổi khí hậu và  toàn cầu hóa kinh tế, hội nhập quốc tế; một thách thức khu vực là việc sử dụng nguồn nước trên thượng nguồn; và thách thức từ chính tác động của con người tại đồng bằng.

 

Tác động của các thách thức này tạo ra một bối cảnh mới so với cách đây chưa đến hai thập kỷ.

 

Cần nhấn mạnh là các thách thức trên đây không tác động riêng lẻ, mà  cùng lúc và  liên hoàn tác động lên nhau làm cho bối cảnh không ngừng biến đổi.

 

Dưới đây là tóm tắt những nét chính của bối cảnh mới tại đồng bằng. 

 

Từ biến đổi khí hậu, theo Bộ TN&MT 3:

 

Lượng mưa trung bình năm, nhiệt độ trung bình năm sẽ tăng với một sự phân hóa khá rõ giữa các mùa Đông, Xuân, Hè, Thu. Điều này có ý nghĩa quan trọng đối với sản xuất nông nghiệp tại đồng bằng.

 

Về mực nước biển dâng (NBD), trong phương án phát thải cao vào năm 2100, mực NBD ở ĐBSCL vào khoảng 99 cm đến 102 cm.

 

Cùng với mực NBD, biển sẽ tác động mạnh hơn lên vùng cận duyên, triều sẽ mạnh lên và truyền sâu vào nội đồng.

 

Ngoài ra, các tình huống cực đoan sẽ diễn ra ngày càng nhiều, với xu hướng thời gian kéo dài và  cường độ ngày càng tăng.

 

Bão và áp thấp nhiệt đới có xu hướng đi về phía Nam Biển Đông nhiều hơn, và vào cuối mùa bão. Một "ổ bão" dường như đang hình thành trong Biển Đông.

 

Theo dự báo biến đổi khí hậu toàn cầu, nước ngọt sẽ ngày càng khan hiếm; nhiệt độ trung bình toàn cầu tiếp tục tăng; mực nước biển dâng uy hiếp các vùng ven biển và các châu thổ

 

Từ việc sử dụng nguồn nước trên thượng nguồn

 

Dòng chảy trọng lực liên tục bị thay thế bằng dòng chảy bậc thang. Chế độ thủy văn, mùa thủy văn bị thay đổi.

 

Lượng nước trung bình năm chảy về ĐBSCL ngày càng ít. Đỉnh lũ ở Tân Châu và Châu Đốc có xu hướng giảm khá rõ. Chất lượng nước cũng vậy.

 

Lượng trầm tích chuyển tải về đồng bằng giảm. Cán cân trầm tích âm kéo theo sự thay đổi về hình thái của lòng sông, cồn bãi, các cửa sông và đường bờ biển của châu thổ, tổng thể thiên về bị xói lở, và  lớp phủ phù sa bề mặt châu thổ mỏng đi.

 

Đa dạng sinh học, nguồn lợi thủy sản (nội địa và biển) giảm sút. Nhiều loài có thể bị tuyệt chủng.

 

Mặn sẽ theo triều (mạnh lên với NBD) xâm nhập sâu hơn vào châu thổ.

 

Từ tác động tại đồng bằng

 

Rừng tràm và rừng ngập mặn bị chặt phá trên diện tích rộng để trồng lúa và nuôi tôm. Bờ biển mất đi đệm chắn sóng và quyện giữ phù sa.

 

Việc khai thác cát sông, nước ngầm rất nhiều và không quản lý được làm gia tăng mực nước biển dâng thực tế và làm trầm trọng thêm sự lún chìm và   bị xâm thực của đồng bằng.

 

Tài nguyên đất bị khai thác với nguy cơ bị kiệt quệ; tài nguyên nước bị lãng phí trong khi lượng nước về ngày càng ít. Những vùng đê bao triệt để không giữ lại một lượng nước khá lớn trên châu thổ, và được các dự án kiểm soát lũ đưa nhanh ra biển.

 

Những vùng ngập nước đã bị chắt cạn để tăng vụ trước đây, làm mất đi khả năng trữ nước của đồng bằng. Mực thủy cấp hạ thấp cộng với khô hạn do thiếu lũ, có thể dẫn đến “xì phèn” ở các vùng đất phèn hoạt động và tiềm tàng nằm không sâu.

 

Bối cảnh mới tóm tắt trên đây đang ảnh hưởng to lớn đến môi trường, kinh tế, cuộc sống và kế sinh nhai của gần 19 triệu người dân đồng bằng. Hơn thế nữa, bối cảnh mới hàm chứa nhiều yếu tố bất định.

 

Trong bối cảnh bị đe dọa như vậy, thách thức từ hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa kinh tế buộc nền kinh tế đồng bằng phải có sức cạnh tranh cao hơn và phải có chỗ đứng trong chuỗi giá trị toàn cầu trong khi nền kinh tế toàn cầu khôi phục chậm và hàm chứa những yếu tố bất ổn không lường trước được.

 

Hơn bao giờ, ĐBSCL cần một nền quản lý nhà nước không chồng chéo, liên kết, phối hợp; cần những cơ chế chính sách tạo nên sức mạnh tổng hợp để vượt qua các thách thức và phát triển bền vững.

 

II. Tái cơ cấu nông nghiệp ở ĐBSCL

 

1. Phải tái cơ cấu vì mô hình tăng trưởng hiện nay (phát triển theo chiều rộng hơn chiều sâu, chú trọng lượng hơn chất) không còn phù hợp. Tài nguyên đất kiệt quệ, tài nguyên nước bị lãng phí, GDP/ng/năm của ĐBSCL tụt hậu so với bình quân cả nước; vì toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập toàn cầu không cho phép đồng bằng dẫm chân tại chỗ, càng không thể tụt hậu; vì biến đổi khí hậu, nước biển dâng và hậu quả của việc sử dụng nguồn nước trên thương nguồn, đặc biệt của việc xây dựng các đập thủy điện trên dòng chính.

 

2. Mục đích của tái cơ cấu nông nghiệp trong bối cảnh mới là  "Khai thác tối ưu tiềm năng, lợi thế của ĐBSCL và của từng địa phương, huy động, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đầu tư để: (1) xây dựng một nền nông nghiệp “thông minh”, ít phát thải khí nhà kính, tạo ra các sản phẩm với quy mô lớn, theo chuỗi giá trị, có năng lực cạnh tranh cao trong điều kiện hội nhập quốc tế; (2) nâng cao sinh kế, tạo việc làm mới, tăng thu nhập, từng bước nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân; (3) bảo vệ môi trường".

 

3. Các yêu cầu đối với TCCNN

3.1. Nhận thức rõ về bối cảnh mới. Xin nhắc lại:

 

(a) Sự khan hiếm nước ngọt và những tình huống cực đoan sẽ xảy ra nhiều hơn, với cường độ mạnh hơn.

(b) Lũ sẽ thấp hơn, nguồn lợi thủy sản sẽ giảm.   

(c) Trầm tích sẽ về ít hơn, cán cân trầm tích âm kéo theo biến đổi địa mạo lòng sông, cửa sông, bờ biển xói lở nhiều hơn bồi;

(d) Phù sa sẽ về ít hơn, độ phì của đất giảm, mặt đất sụt lún tự nhiên;

(đ) Có nhiều yếu tố bất định.

 

3.2  Yêu cầu đặt ra cho TCCNN từ bối cảnh mới

1. Sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả tài nguyên nước ngọt;

2. "Dưỡng đất", bồi dưỡng bù lại việc giảm phù sa;

3. Sớm tiến tới một nền nông nghiêp thông minh, ít phát thải khí nhà kính;

4. Chung sống với mặn, ngập, hạn, xem nước mặn là tài nguyên;

5. Phù hợp với môi trường và quy luật thủy văn của một châu thổ sông;

6. Phải phát triển liên kết tiểu vùng và trên quy mô toàn ĐBSCL.

7. Thực hiện cho được sự xâu kết chuỗi giá trị các mặt hàng nông sản.

8. Đặt TCCNN trong sự xâu kết giữa 3 khu vực I, II, III của nền kinh tế;

9. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, ngay từ gốc là nông dân.

 

4. Nội hàm của TCCNN vì sự phát triển bền vững của đồng bằng 

 

Trong khi chờ đợi một cơ chế sử dụng nguồn nước trong đó quyền và lợi ích của mỗi quốc gia phải đi đôi với trách nhiệm và nghĩa vụ đối với cả lưu vực, cơ chế này được quy định bằng một điều ước quốc tế.

 

Trước mắt, cần có quy định về việc chia sẻ các số liệu thủy văn, cơ chế vận hành của đập thủy điện giữa các nước trong lưu vực, đã và sắp đi vào vận hành, phải là một yêu cầu mang tính bắt buộc để quản lý tốt nguồn nước sông Mekong và các rũi ro từ biến đổi khí hậu trong lưu vực. Quy định này là  một hỗ trợ cơ bản cho TCCNN ở ĐBSCL. Công việc này thuộc trách nhiệm của Nhà nước.

 

(1) Rà soát lại các quy hoạch tổng thể, các quy hoạch ngành, địa phương, theo hướng phải tiết kiệm và sử dụng có hiệu quả cao nước ngọt, chung sống với hạn, mặn và ngập, khai thác nước lợ và nước mặn ở vùng III, đảm bảo nước ngọt cho sinh hoạt của người dân.

 

Vì có nhiều yếu tố bất định, trước khi quyết định các biện pháp công trình, phải cân nhắc hiệu quả KT-XH và tác động đến môi trường. Dành sự quan tâm thích đáng cho các giải pháp phi công trình (các giống cây, con cho vùng lợ, mặn, các vật liệu xây dựng nhẹ, chịu lực, bền cho vùng đất ngập mặn, lọc nước mặn thành nước ngọt, các chính sách để tái tạo rừng tràm, RNM, ..). 

 

(2) Mô hình phát triển ở đồng bằng phải sát với điều kiện sinh thái của các tiểu vùng. Tiến tới một nền nông nghiêp thông minh và phát thải ít khí nhà kính.

 

Sản xuất lúa ít hơn nhưng gạo có giá trị xuất khẩu cao, để cho đất “nghỉ” (vì phù sa về ngày càng ít), và  được bồi dường bằng luân canh với các cây họ đậu.

 

Tổ chức lại cuộc sống và sản xuất trong vùng mặn và ngập mặn. “Bám trụ” sống, sản xuất và làm giàu trong điều kiện mới có ý nghĩa to lớn về kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng. 

 

Điều này khó nhưng không phải không khả thi trong điều kiện KH&CN ngày nay. Điều cần thiết là Nhà nước có cơ chế, chính sách tạo điều kiện và khuyến khích những nông dân, doanh nghiệp, nhà khoa học thành công trong việc đưa KH&CN phục vụ TCCNN.

 

(3) Nâng cao trình độ nguồn nhân lực. Tiến tới nông dân, xã viên HTX có kiến thức về kỹ thuật nông nghiệp, về môi trường, về quản lý tài chính và quản trị kinh doanh vì suy cho cùng mỗi nông hộ là một doanh nghiệp.

(4) Giải quyết tình trạng "thừa chồng chéo, thiếu phối hợp", quản lý tốt hơn việc khai thác tài nguyên, theo dõi các biến động do việc khai thác nguồn nước trên thượng nguồn, đo đạc và lưu trữ số liệu về khai thác cát sông, về lượng phù sa chảy về đồng bằng, về khai thác nước ngầm (sự sụt giảm của mực nước ngầm), về độ sụt lún mặt đất tự nhiên và gia tốc (do tác động của con người).

(5) Hơn bao giờ, xâu kết chuỗi giá trị, liên kết phát triển vùng  là việc bức thiết phải làm trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập quốc tế.

Kết quả thí điểm liên kết phát triển kinh tế - xã hội ở các tiểu vùng không phải chỉ là tăng được bao nhiêu % so với trước liên kết, mà còn là các kiến nghị về cơ chế chính sách, những đổi mới về thể chế, những cải cách trong thiết chế nhà nước cần được Nhà nước ban hành. 

(6) Để phát triển bền vững, phải giải quyết tình trạng đồng bằng đang là vùng trũng về giáo dục. Cần đầu tư nhiều hơn nữa cho hạ tầng cơ sở ở đồng bằng, tương ứng với những đóng góp của nó. 

(7) Tranh thủ nguồn lực (vốn, công nghệ) từ bên ngoài, trong đó có FDI. Hợp tác có hiệu quả các dự án, chương trình do các tổ chức quốc tế, các nhà tài trợ chính phủ và phi chính phủ góp sức cùng Viêt Nam ứng phó với BĐKH sau COP 21.

 

III. Xâu kết chuỗi giá trị

III.1. Theo nghĩa thông thường, chuỗi là tập hợp nhiều phần tử (hay hạt) được xâu kết với nhau.

Chuỗi giá trị của một mặt hàng là tập hợp nhiều công đoạn được xâu kết với nhau, sau mỗi công đoạn giá trị mặt hàng được gia tăng. Giá trị mặt hàng ở đầu ra phụ thuộc vào sự liên tục của chuỗi.

 

Chuỗi giá trị các ngành hàng nông nghiệp được thể hiện như sau:

 

Xuất khẩu thô hay bán thô các mặt hàng gạo, cà phê, … là mới đi chặng đường đầu của chuỗi. Các công ty nước ngoài nhập hàng thô này, chế biến, bao bì, để tên nhãn hiệu bán ra thị trường. Họ đi tiếp chặng đường còn lại của chuỗi và hưởng trọn phần giá trị gia tăng. Tại sao chúng ta không thể làm như vây?

 

Cả ĐBSCL có bao nhiêu kho trữ thóc, bằng bao nhiêu % của tổng sản lượng lúa hàng năm? Khâu sau thu hoạch hầu như bị thủng.  

 

Giá xuất khẩu của gạo Việt Nam, cho dù 5% hay 25% tấm, liên tục giảm và “đội sổ”, bắt đầu từ khâu đầu tiên giống. Nông dân rất muốn trồng các giống có giá trị xuất khẩu cao như Jasmine, Japonica, … nhưng sau khi thu hoạch giá bán hơn giá gạo IR 50404 không bao nhiêu, không bù lại giá mua thóc giống, công chăm sóc. Giống IR 50404 vẫn được trồng rộng rãi vì chuỗi bị đứt ở đầu ra. Vì đâu?

 

Các khu vực 1, 2, và 3 của nền kinh tế phải gắn kết với nhau thành chuỗi thì nền kinh tế mới có hiệu quả cao. Điều này ai cũng biết.

 

Bộ Công Thương được Quốc hội khóa XII thành lập, với mong muốn khu vực công nghiệp và khu vực thương mại, dịch vụ gắn kết với nhau. Sự gắn kết này cần được nghiêm túc đánh giá.

 

Các khu vực 3 và 2 phải tạo ra sức hút tốt cho khu vực 1 thì hàng nông sản mới không chỉ xuất thô hay sơ chế, giá thấp. Về vấn đề này, sự phối hợp giữa Bộ Công Thương và Bộ NN&PTNT như thế nào?

 

Hiện nay nhiều viện, trường hoạt động rất tốt trong từng khâu, nhưng kết quả hoạt động không được xâu kết vào chuỗi giá trị.

 

Trong những năm gần đây, ở ĐBSCL xuất hiện nhiều doanh nghiệp đã xâu kết các khâu của chuỗi giá trị gạo và đã chỉ ra các doanh nghiệp là tác nhân xâu kết chuỗi giá trị, nhất là họ khi biết áp dụng công nghệ thông tin vào sự xâu kết này.

 

Công nghệ cao (CNC) đã được áp dụng trong các khâu, và nhất là để xâu kết các khâu. Tuy nhiên CNC áp dụng vào một khâu trong một chuỗi bị gián đoạn không mang lại hiệu quả bằng CN bình thường trong một chuỗi giá trị liên tục.

 

Nông dân là người làm ra sản phẩm nhưng được hưởng rất ít từ phần giá trị tăng thêm của chuỗi. Để họ là  động lực của TCCNN cần có khung khổ để nông dân tham gia tích cực hơn vào các chuỗi giá trị hàng nông sản và được hưởng nhiều hơn từ đó.

 

IV. Liên kết phát triển vùng

Tái cơ cấu nông nghiệp sẽ đi vào nếp củ nếu không thực hiện liên kết phát triển giữa các tỉnh, các tiểu vùng, và vùng ĐBSCL.

 

Cơ sở khoa học của các tiểu vùng cần liên kết phát triển

Dựa trên môi trường vật lý của ĐBSCL (kết quả của quá trình tương tác giữa địa chất, thổ nhưỡng và thủy văn từ khoảng 5000 – 6000 năm nay), Chương trình “Điều tra cơ bản tổng hợp ĐBSCL” (CT 60-B) phân đồng bằng thành 5 tiểu vùng: đồng lũ kín ĐTM, đồng lũ nửa mở TGLX; đồng lũ nửa kín Tây sông Hậu; tam giác châu giữa sông Tiền sông Hậu; và Bán đảo Cà Mau 4.

 

Từ sự giao thoa giữa quá trình sông từ thượng nguồn về với quá trình biển, được hình thành tại đồng bằng 3 tiểu vùng: (I) nơi quá trình sông chiếm ưu thế; (III) nơi quá trình biển chiếm ưu thế, và (II) nơi mà hai quá trình tranh chấp và cân bằng động.

 

Các đường ranh phân định 3 tiểu vùng dịch chuyển theo mùa. Sự dịch chuyển trở nên phức tạp hơn trong bối cảnh BĐKH, và nhất là khi các đập thủy điện trên dòng chính đi vào vận hành chi phối bởi lợi nhuận của việc phát điện. ai cách tiếp cận đồng bằng, môi trường vật lý, và giao thoa sông – triều, không mâu thuẩn nhau mà bổ sung cho nhau.

 

Cùng nằm trong vùng ngọt (I), cùng là hai đồng lũ, nhưng quy hoạch phát triển tiểu vùng Đồng Tháp Mười sẽ khác với quy hoạch tiểu vùng Tứ giác Long Xuyên, bởi lẽ ĐTM là một đồng lũ kín trong khi TGLX bao gồm một đồng lũ ½ mở và một đồng lũ mở, chế độ thủy văn rất khác nhau.

 


Năm tiểu vùng theo môi trường vật lý                                Ba tiều vùng giao thoa sông – triều

 

Vì ĐBSCL là một châu thổ, rất phẳng, cao trình mặt đất thấp, nên khi quy hoạch các tiểu vùng, cần hết sức chú ý đến các đặc trưng thủy văn, yếu tố biến động nhất so với thổ nhưỡng và địa chất, đến kết quả của sự giao thoa giữa sông Mekong, triều Biển Đông và triều Vịnh Thái Lan.

Không thể để muộn hơn sự liên kết phát triển vùng 

 

Trong báo cáo tổng hợp của CT 60-B 5 , ở chương bốn, “ĐBSCL nhìn về thế kỷ XXI”, vấn đề liên kết để phát triển đã được CT đặt ra.

 

Các tiểu vùng, với cơ sở khoa học phân định trên đây, chính là để khai thác tài nguyên để phát triển liên kết giữa các địa phương theo điều kiện sinh thái.

 

CT 60-B đã đề ra tám quan điểm phát triển kinh tế vùng ĐBSCL6 và một số gợi ý về biện pháp nhằm thực hiện Chiến lược phát triển vùng ĐBSCL7.

 

Những đề xuất và kiến nghị của CT 60-B cách đây 26 năm có lẽ quá sởm ở thời điểm 5 năm sau “Đổi Mới”. Kinh tế phát triển theo từng tỉnh đang ở giai đoạn ban đầu, đang sức lớn. Những tác dộng tiêu cực lên về môi trường chưa có thời gian để bộc lộ.

 

Sau đó, liên kết phát triển tiểu vùng và vùng ĐBSCL ngày càng được nhận thức là cần thiết. Bởi các lẽ:

(a) Nền kinh tế của 13 tỉnh ĐBSCL cộng số học với nhau không phải là tiềm năng kinh tế của cả đồng bằng; 

(b) Phát triển riêng lẻ không phát huy nhau mà còn tạo ra cạnh tranh nhau, tranh mua, tranh bán, tranh thu hút đầu tư, thậm chí triệt tiêu nhau. Trong điều kiện đó ĐBSCL không có năng lực cạnh tranh cần thiết trong thời buổi toàn cầu hóa kinh tế, hội nhập quốc tế, để có chỗ đứng trong chuỗi giá trị toàn cầu;

(c) Các tài nguyên, đặc biệt tài nguyên nước, tuân theo các quy luật tự nhiên chứ không theo ranh giới hành chính, hay theo ý chí chủ quan. Cái giá phải trả cho sự chia cắt rất đắt, thậm chí môi trường không chấp nhận.

 

Đã đến lúc phải triển khai liên kết phát triển theo tiểu vùng và cả vùng, vì đồng bằng mà cũng vì cả nước. “Có bước đi thích hợp” nhưng không thể chần chừ vì đó là một nội hàm của tái cơ cấu kinh tế, một nội dung của đổi mới thể chế.

 

Những nguyên tắc trong liên kết

Các từ liên kết, phối hợp đã được nói đến nhiều nhưng nội hàm cần được làm rõ. Từ thực tiển những manh nha liên kết, trước tiên chúng tôi cho rằng có 5 nguyên tắc cần cho liên kết giữa các bên 8.

1.    Liên kết phải xuất phát từ yêu cầu;

2.    Liên kết vùng phải tạo ra giá trị gia tăng  và các bên tham gia cùng có lợi;

3.    Giải pháp trong liên kết phải phù hợp với quy luật tự nhiên, kinh tế, xã hội và  bảo vệ môi trường tại địa bàn;

4.    Liên kết phải được thực hiện từ cơ sở lên, nơi sâu sát với sự biến đổi của môi trường tự nhiên, kinh tế, xã hội, mà cũng là nơi diễn ra các mâu thuẩn cần giải quyết.

5.    Liên kết phải thu hút được sự tham gia của cộng đồng dân cư, của các nhà khoa học, của các doanh nghiệp theo tinh thần đối tác công tư (PPP).

Sự liên kết giữa các địa phương chỉ tốt nếu có sự phối hợp giữa các bên để tránh sự vênh nhau trong quy hoạch, bảo đảm cho các tài nguyên được khai thác đúng quy luật, tránh các khe hở trong chính sách, trong tranh mua tranh bán dẫn đến các bên “cùng thua”.

 

Thực tiễn chỉ ra những phối hợp cần thiết   là:

1.    Phối hợp trong việc khai thác và chia sẻ các nguồn tài nguyên và bảo vệ môi trường.

2.    Phối hợp trong việc lập và phê duyệt các quy hoạch tổng thể, các quy hoạch ngành và địa phương, đặc biệt trong quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng, quy hoạch phát triển cơ sở hạ tầng;

3.    Phối hợp trong việc ban hành các chính sách thu hút đầu tư;

4.    Phối hợp trong phát triển nguồn nhân lực;

5.    Phối hợp trong các chính sách về an sinh xã hội, và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân;

 

Những nhân tố nào thúc đẩy sự phối hợp? Từ thực tiễn đó là:

1.    Lợi ích của những người bị ảnh hưởng và của các bên liên quan chính được cân nhắc và đảm bảo trong các giải pháp;

2.    Sự tham gia thỏa đáng của các bên liên quan khi xây dựng chiến lược hành động;

3.    Có năng lực thích hợp, cơ chế tốt và công cụ mạnh để triển khai các chính sách;

4.    Công tác theo dõi, đánh giá khách quan, công khai và có hiệu lực.

 

Những thí điểm về liên kết phát triển vùng gần đây

Ngày 06.04.2016, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 593/QĐ-TTg ban hành Quy chế thí điểm liên kết phát triển kinh tế - xã hội vùng ĐBSCL giai đoạn 2016-2020. Đây là văn bản pháp quy đầu tiên về thí điểm liên kết phát triển vùng.

Nghiên cứu 19 điều của Quy chế, từ mục đích liên kết (Điều 2) đến 4 nguyên tắc liên kết (Điều 3), dường như Quy chế thí điểm liên kết không nhằm tháo gở các cơ chế chính sách đang kềm hãm sự phát triển vùng (ĐBSCL nói riêng, và các vùng khác trong cả nước nói chung) mà chỉ thí điểm thực hiện những dự án, chương trình liên tỉnh cơ bản theo cơ chế quản lý hiện hành.

Ngày 19.07.2016, Tỉnh ủy Đồng Tháp đã có công văn gửi Thủ tướng Chính phủ xin chủ trương lập đề án “Liên kết phát triển bền vững tiểu vùng ĐTM”.

Ngày 01.08.2016, CV 6345/VPCP-V.III thông báo ý kiến của TTCP đồng ý về chủ trương xây dựng đề án, gắn với việc triển khai QĐ 593/QĐ-TTg.

Một đề xuất để phát triển liên kết Tiểu vùng Đồng Tháp Mười

 

Tại Hội thảo khoa học Liên kết hợp tác phát triển nông nghiệp tiểu vùng Đồng Tháp Mười, do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức tại Long An, ngày 30.08.2016, chúng tôi đề xuất 7 chương trình mục tiêu tiểu vùng vừa cấp bách vừa mang tính thí điểm cho sự liên kết phát triển tiểu vùng.

(1) Chương trình lúa gạo (diện tích ăn chắc, sản xuất sạch, tiết kiệm nước, ít phát thải khí nhà kính, theo chuỗi giá trị, giá trị xuất khẩu cao, có thương hiệu).

(Trả lại một phần diện tích cho rừng tràm. Có quan hệ với các Chương trình 4, 3 và 2.).

(2) Chương trình trái cây đặc sản (sạch, giá trị xuất khẩu cao, CD địa lý).

(3) Chương trình thủy sản sạch (cá tra, cá đen, tôm càng xanh, …)

(4) Chương trình trồng lại rừng tràm, trữ nước ngọt và khôi phục chuỗi dinh dưỡng đa dạng vốn có, kết hợp phát triển du lịch sinh thái.

(5) Chương trình nước sạch cho tiêu dùng, nước đáp ứng quy chuẩn trong các kênh trong Tiểu vùng nhất là trong mùa khô.

(6) Chương trình cơ sở hạ tầng thủy lợi, giao thông thủy bộ. Có liên quan đến 5 chương trình trên. CT thực hiện tiếp với tinh thần liên kết, phối hợp trên địa bàn ĐTM, Quyết định số 99/TTg ngày 9/2/1996 của Thủ tướng CP về phát triển thuỷ lợi, giao thông và xây dựng nông thôn vùng ĐBSCL, trong bối cảnh mới.

(7) Chương trình giải quyết vùng trũng về giáo dục và đào tạo nghề cho tiểu vùng. CT còn nhằm đào tạo nông dân, xã viên các HTX có kiến thức về kỹ thuật nông nghiệp, về môi trường, về quản lý tài chính và về quản trị kinh doanh” bởi lẽ một nông hộ suy cho cùng cũng là một doanh nghiệp nhỏ.

Sáu chương trình mục tiêu từ 1 đến 6 có chung “trục” là yếu tố nước đang chịu nhiều tác động tiêu cực về lượng và về chất trong tiểu vùng.

Các chương trình mục tiêu trên đây đều có tiền đề thuận lợi để triển khai.

Cần xác định rõ mục tiêu, định lượng kết quả của từng chương trình trong chừng mực có thể, và ước tính thời gian thực hiện.

Đặt vấn đề cho đúng, xây dựng nội dung chặt chẽ, chọn ban chủ nhiệm chương trình am tường về chuyên môn, am hiểu địa bàn, có tầm nhìn hệ thống, là những công việc quyết định sự thành công của các chương trình.

 

Thí điểm vì là lần đầu tiên thử nghiệm sự phát triển liên kết. Các vấn đề dưới đây cần được thí điểm.

(a) Mô hình tổ chức để điều hành các chương trình mục tiêu, và xa hơn cho sự phát triển tiểu vùng, như thế nào?

(b) Nguồn lực cần thiết cho các chương trình mục tiêu, và xa hơn cho sự phát triển của tiểu vùng, huy động từ đâu?

(c) Những cơ chế chính sách cần thiết chắc chắn sẽ phải được thí điểm.

(d) Nhìn xa hơn, ĐBSCL còn có nhiều tiểu vùng khác. Có cần liên kết phát triển giữa các tiểu vùng không? Quy mô liên kết phát triển chắc sẽ không dừng lại ở các tiểu vùng riêng lẻ.

(đ) Chiến lược phát triển vùng đồng bằng sông Cửu Long được xây dựng từ các tiểu vùng lên, hay cho toàn đồng bằng, hay cùng lúc trong cả hai chiều?

(e) Mô hình tổ chức để điều phối sự liên kết phát triển vùng, nguồn lực cho sự phát triển vùng đồng bằng sông Cửu Long chắc chắn sẽ được đặt ra.

Khi tiến hành thí điểm tiểu vùng ĐTM, chúng ta sẽ có được những kinh nghiệm cho các vấn đề vừa nêu. Đây là những vấn đề mà bài tham luận hôm nay thấy cần gợi ra nhưng chưa đề cập.

 

V. KH&CN và VÀ TCCNN trong bối cảnh mới

V.1. Không đi vào những nhiệm vụ cụ thể, xin nêu lên các nhóm nhiệm vụ cần triển khai phục vụ cho việc ứng phó với các thách thức, đồng thời cho tái cơ cấu nông nghiệp và phát triển bền vững ở ĐBSCL.

(1) Cập nhật số liệu về thổ nhưỡng, thủy văn. Xây dựng cơ sở dữ liệu về trầm tích, về chất lơ lửng, về khai thác cát, khai thác nước ngầm, về biến động địa mạo lòng sông, cửa sông, bờ biển, …

(2) Xác định ảnh hưởng và ranh giới của các tác động đối với đồng bằng, tiểu vùng, tỉnh. Đánh giá diễn biến của mực nước ngầm; độ sụt lún tự nhiên và gia tốc của mặt đất. Đánh giá các tương quan.

(3) Tham gia vào các quy hoạch, tạo cơ sở cho các quyết định của lãnh đạo tỉnh; phản biện các công trình lớn tác động nhiều đến môi trường tự nhiên, văn hóa xã hội;

(4) Áp dụng các tiến bộ KHCN, đặc biệt về CNTT, đề xuất các giải pháp phi công trình, các công trình dễ chuyển đổi công năng (do có nhiều yếu tố bất định), và các giải pháp để xâu kết chuỗi giá trị các mặt hàng nông sản, nhớ rằng chuỗi giá trị ngành hàng liên tục thì giá trị sản phẩm mới cao. Áp dụng CNC nhưng chuỗi đứt đoạn chưa chắc kết quả đã hơn CN vừa trong chuỗi liên tục.

(5) Góp phần vào nâng cao nhận thức và thực hiện liên kết phát triển tiểu vùng và cả vùng ĐBSCL.

(6) Góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.

Các nhóm vấn đề trên sẽ phục vụ thiết thực nếu được triển khai theo các tiểu vùng. Sẽ có được các Chương trình KH&CN phục vụ phát triển liên kết các tiểu vùng. Tập hợp ngang theo nhóm, sẽ có được nội dung của nhóm trên cả đồng bằng. Việc tập hợp mỗi nhóm từ các tiểu vùng cho phép phát hiện các chỗ vênh cần thảo luận để điều chỉnh. 

Dĩ nhiên bên cạnh các nhóm vấn đề theo tiểu vùng, có những nội dung cần điều tra, nghiên cứu trên toàn đồng bằng, 

Đó là cách CT 60-02 và 60-B đã tiến hành.

V.2.Từ tháng 4.2014, Chương trình khoa học và công nghệ phục vụ phát triển bền vững vùng Tây Nam Bộ (Chương trình Tây Nam bộ)9 một chương trình khoa học cấp quốc gia, đã được thành lập. Như tên gọi, CT TNB phải phục vụ sự phát triển bền vững ĐBSCL.

Hơn 2 năm đã trôi qua. CT TNB cần nhanh chóng bắt tay vào thực hiện mục tiêu đúng như tên gọi, mà tái cơ cấu nông nghiệp đồng bằng, xâu kết chuỗi và liên kết phát triển vùng là những vấn đề cụ thể, thiết thực.

Kinh phí từ ngân sách nhà nước dành cho CT hàng năm không nhỏ. Sự phối hợp và liên kết ngay trong Chương trình là cấp thiết, và là một điều kiện tiên quyết để Chương trình thành công.

 

Thay lời kết

 

Vì sự phát triển bền vững của ĐBSCL, và của cả nước, tái cơ cấu nông nghiệp trong bối cảnh mới phải thành công.

Nhiệm vụ khó khăn vì các thách thức bên ngoài, quy mô toàn cầu và khu vực, và tại địa bàn, không tác động riêng lẻ mà cung nhau và liên hoàn tác động, trong khi đó cơ chế chính sách, quản lý nhà nước còn nhiều bất cập, cần được đổi mới nhanh chóng hơn.

Tuy nhiên, trên 13 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long đã có những kết quả nghiên cứu triển khai, những mô hình mà kết quả đã đi vào sản xuất và cuộc sống. Đây là  những tiền đề thuận lợi để ĐBSCL vượt qua các thách thức, tái cơ cấu nông nghiệp trong bối cảnh mới thành công.

------------------------------------------------------------------------

Chú thích:

* Tham luận tại Hội nghị "Tái cơ cấu nông nghiệp gắn với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, thủy lợi, xây dựng nông thôn mới, liên kết hợp tác nông nghiep theo chuỗi giá trị; kế hoạch hợp tác liên kết phát triển bền vững tiểu vùng Đồng Tháp Mười", Cao Lãnh, ngày 27.09.2016.

* * Nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Kỹ thuật Nhà nước, Chủ nhiệm Chương trình “Điều tra cơ bản tổng hợp đồng bằng sông Cửu Long”, Đại biểu Quốc Hội các khóa IX,X,XI, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội.

1.  Có thể xem đầy đủ hơn trong bài tham luận của tác giả tại hội nghị ngày 26.9.2016, tại Cà Mau.

2. Kịch bản Biến đổi khí hậu, nước biển dâng cho Việt Nam, Hà Nội, 2012.

3. Các Chương trình phát triển Đồng Tháp Mười (1987), Tứ giác Long Xuyên, Tây sông Hậu (1988), và Ban chỉ đạo nghiên cứu khai thác Bán đảo Cà Mau (1989) đã được Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt lần lượt thành lập, có ranh giới dựa trên các tiểu vùng này.

4.   Đồng bằng sông Cửu Long, Tài nguyên – Môi trường – Phát triển, Báo cáo tổng hợp của Chương trình khoa học Điều tra cơ bản tổng hợp đồng bằng sông Cửu Long, Gs.Ts. Nguyễn Ngọc Trân, Chủ nhiệm Chương trình chủ biên, Ủy ban Khoa học Nhà nước, Hà Nội, 3.1991.

5. Đó là: 1. Phát triển "Vì cả nước, cùng cả nước"; 2. Phát triển nền kinh tế hàng hóa; 3. Phát triển nền kinh tế mở, liên kết trên cơ sở phát huy cao nhất những yếu tố bên trong; 4. Phát triển đồng bộ, năng động và vững chắc; 5. Khai thác tài nguyên, bảo vệ môi trường đúng quy luật và phát triển bền vững; 6. Nhận thức đúng mức tầm quan trọng, khai thác vùng lãnh hải, các đảo và quần đảo; 7. Phát huy vị trí địa lý trung tâm khu vực Đông Nam châu Á của ĐBSCL và Nam Bộ, nơi đã từng có thời kỳ cực thịnh trong giao lưu kinh tế với bên ngoài; 8. Ý chí phát triển. Tài liệu đã dẫn, trang 252 – 255.

6. Đó là : 1. Vấn đề vốn; 2. Các chính sách đòn bẩy; 3. Các Chương trình mục tiêu, các vấn đề then chốt cần triển khai; 4. Vấn đề khoa học, kỹ thuật và môi trường; 5. Năm đổi mới định chế và cơ chế quản lý kinh tế xã hội (tiền tệ, ngân sách-thuế, ngân hàng-tín dụng, hành chính, luật pháp); 6. Về tổ chức thực hiện. Tài liệu đã dẫn, trang 267 – 282.

7. Có tham khảo tài liệu “Phối hợp liên tỉnh trong phát triển vùng ở Việt Nam”, do Bộ Kế hoạch và Đầu tư, JICA thực hiện năm 2014

8. Chương trình khoa học và công nghệ phục vụ phát triển bền vững vùng Tây Nam Bộ (Chương trình Tây Nam Bộ) theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, đã được Bộ KH&CN phê duyệt trong quyết định 734/QĐ-BKHCN ngày 18/4/2014 giao Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam và ĐHQG-HCM đồng chủ trì. 

9. Mục tiêu: “Cung cấp luận cứ khoa học cho việc xây dựng và triển khai một chiến lược phát triển bền vững vùng ĐBSCL trong bối cảnh biến đổi khí hậu, mang tính tổng thể và lâu dài; Đề xuất và triển khai các giải pháp khoa học và công nghệ góp phần phát triển vùng ĐBSCL thành vùng trọng điểm sản xuất nông nghiệp hàng hóa và thủy sản của cả nước, mạnh về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng và bảo vệ môi trường. CT có tính đến bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế”. (Trích từ http://cttnb.org.vn/home/index.php)

 

Theo Tiasang

Trở lại      In      Số lần xem: 1291

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Hơn 120 quốc gia ký kết Hiệp ước Paris về biến đổi khí hậu
  • Một số giống đậu tương mới và mô hình chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất lúa tại Đông Nam Bộ và Đồng Bằng Sông Cửu Long
  • Các nước cam kết chống biến đổi khí hậu
  • 12 giống hoa được công nhận bản quyền
  • Thảo luận việc quản lý nước theo cơ chế thị trường
  • Lượng nước ngầm trên Trái đất đạt 23 triệu kilômét khối
  • Sản xuất hồ tiêu thế giới: Hiện trạng và Triển vọng
  • Triển vọng tích cực cho nguồn cung ngũ cốc toàn cầu năm 2016
  • Cây trồng biến đổi gen với hai tỷ ha (1996-2015); nông dân hưởng lợi >150 tỷ usd trong 20 năm qua
  • Cơ hội cho gạo Việt
  • Việt Nam sẽ áp dụng cam kết TPP cho thêm 40 nước
  • El Nino có thể chấm dứt vào cuối tháng 6
  • Chi phí-hiệu quả của các chương trình bệnh động vật "không rõ ràng"
  • Xuất khẩu hồ tiêu: Gậy ông đập lưng ông
  • Đất có thể đóng vai trò quan trọng trong việc giảm lượng khí nhà kính
  • Quản lý và phát triển thương hiệu gạo Việt Nam
  • Những cách nổi bật để giải quyết những thách thức về hệ thống lương thực toàn cầu
  • Lập bản đồ các hộ nông dân trồng trọt trên toàn thế giới
  • Hỗ trợ chuyển đổi từ trồng lúa sang trồng ngô
  • Nếu không được kiểm soát, cỏ dại sẽ gây thiệt hại kinh tế tới hàng tỷ USD mỗi năm
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD