Tài trợ nghiên cứu cơ bản theo mô hình ba mức
Chủ nhật, 01-01-2017 | 06:24:08
|
Tài trợ cho nghiên cứu theo cách thức hiện nay của Quỹ Nafosted có thể đem lại hiệu quả tức thời cho khoa học Việt Nam nhưng về lâu dài, việc duy trì tài trợ mang tính dàn trải, ngắn hạn và chạy theo số lượng công bố sẽ không thể tạo ra sự phát triển đột phá cho nền khoa học. Vì vậy, Quỹ Nafosted cần có cách đầu tư mới, quyết liệt hơn để khoa học Việt Nam có được những cá nhân và nhóm nghiên cứu xuất sắc.
Quy chế sàng lọc người tài
Để có những giải pháp mang tính dài hạn, chúng ta cần đổi mới cách thức đầu tư cho khoa học trên cơ sở tham khảo cách làm mà các quỹ tài trợ quốc tế đã áp dụng thành công, một trong số đó là Quỹ của Hội đồng Khoa học châu Âu (European Research Council ERC), vốn thực hiện tài trợ cho các nhóm nghiên cứu theo những mức khác nhau: mức thứ nhất dành cho các tiến sĩ trẻ tài năng đã hoàn thành chương trình đào tạo nghiên cứu sinh từ bảy năm trở lại với khoản đầu tư tối đa là 1,5 triệu Euro cho năm năm (ERC starting grant); mức thứ hai - các tiến sĩ đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm làm việc (từ bảy đến 12 năm sau tiến sĩ), đã chứng minh được tài năng với khoản đầu tư lên đến hai triệu Euro cho năm năm (ERC consolidator grant); mức thứ ba - các nhà nghiên cứu đã khẳng định được tài năng và dẫn đầu các phòng thí nghiệm lớn với kinh phí khoảng 2,5 triệu Euro cho năm năm (ERC advanced grant).
Sẽ có nhiều người thắc mắc, việc đầu tư vào những nhà khoa học giỏi và nhóm nghiên cứu mạnh có đòi hỏi mất nhiều kinh phí không. Tôi nghĩ rằng, muốn đạt mục tiêu cao trong khoa học thì số tiền đầu tư cũng phải tương ứng. Nhưng thử nhìn lại, thay vì đầu tư dàn trải, Quỹ đầu tư vào những mũi nhọn một cách chọn lọc thì kinh phí sẽ không quá tốn kém như nhiều người e ngại. Hơn nữa, việc Quỹ nâng cao nguồn kinh phí đầu tư theo cách này không nhằm tăng thêm thu nhập cho nhà khoa học (hiện tại tiền công cho nhà khoa học đã ở mức tương đối hợp lý) mà để tạo điều kiện cho họ đầu tư vào trang thiết bị máy móc, vật tư phục vụ công tác nghiên cứu. Ví dụ, đầu tư cho các nhà khoa học ở mức hai sẽ là 10 tỷ nhưng điểm khác biệt so với việc đầu tư ở mức một chính là chín tỷ dành cho trang thiết bị máy móc và đội ngũ giúp việc triển khai các nghiên cứu (postdoc, nghiên cứu sinh, sinh viên cao học v.v). Nếu còn e ngại về việc số tiền này không được sử dụng đúng mục đích thì Quỹ có thể đề nghị nhà khoa học viết đề xuất để Quỹ có thể tự mua và giao trang thiết bị cho nhà khoa học. Những trang thiết bị như thế sẽ được dán nhãn Quỹ. Quỹ cũng hoàn toàn có thể xem xét đầu tư tập trung trang thiết bị khoa học cho một/một số chuyên ngành theo hướng tạo các trung tâm kĩ thuật (technical platform) hoạt động dưới sự điều hành trực tiếp của Quỹ, nơi các nhà khoa học có thể đến sử dụng một cách thuận lợi (Đây là một ý kiến mà tôi xin được trình bày cụ thể hơn trong một dịp khác). Không chỉ có vậy, Quỹ có thể quản lý được cả những khoản kinh phí khác như chi trả lương cho nhà nghiên cứu và đội ngũ giúp việc triển khai nghiên cứu bằng cách trực tiếp trả qua tài khoản. Để làm được việc này, nhà khoa học cần phải tự ước tính sẽ cần bao nhiêu người (tiến sĩ, postdoc, nghiên cứu sinh, kỹ thuật viên), trong vòng bao nhiêu lâu trong quá trình thực hiện chương trình nghiên cứu. Thực tế, những người làm nghiên cứu khoa học thường rất ngại cầm tiền hay phải lo các thủ tục hành chính nên nếu Quỹ đóng vai trò là cơ quan chủ quản tích cực đối với chương trình nghiên cứu của họ thì rất tốt.
Trong một buổi làm việc tại Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam, đại diện Quỹ Nafosted cũng chia sẻ rất thật về lý do vì sao các nhà quản lý vẫn cứ phải tiến hành nghiệm thu đề tài, dù biết rằng nó có nhiều bất cập bởi đây là cách để họ tránh xảy ra tình trạng thất thoát kinh phí tài trợ mà đâu đó vẫn còn tồn tại. Nguyên nhân sâu xa của nó là các nhà quản lý sợ đầu tư sai nên phải tiến hành nghiệm thu đề tài để quản lý kinh phí. Có thể vì vậy mà Nafosted muốn duy trì cách thức đầu tư như hiện nay là đầu tư để có bài báo ISI.
Việc đầu tư cho nghiên cứu không nên là trách nhiệm của riêng Quỹ Nafosted. Với các nhà nghiên cứu và nhóm nghiên cứu đã được đánh giá để nhận đầu tư ở mức hai, Quỹ nên tài trợ theo hình thức vốn đối ứng giữa Quỹ và cơ quan chủ quản của nhà khoa học (tuy nhiên vấn đề này cũng còn phụ thuộc vào cơ quan chủ quản nữa). Ví dụ ở CEA (Cơ quan Năng lượng nguyên tử Pháp), một nhà nghiên cứu nhận được một triệu euro tài trợ từ Hội đồng Khoa học châu Âu, họ sẽ được CEA tài trợ thêm một triệu euro cho chương trình nghiên cứu của mình. Nếu Quỹ chỉ dừng lại ở việc tài trợ như hiện nay thì sẽ khó đòi hỏi cơ quan chủ quản đối ứng vốn đầu tư. Nhưng nếu đã đánh giá, sàng lọc để chọn ra các nhà nghiên cứu xứng đáng nhận đầu tư ở mức hai, thì các nhà quản lý sẽ có thêm trách nhiệm đầu tư bởi ở khía cạnh nào đó, các nhà khoa học được lựa chọn cũng là niềm vinh dự và thành tích của trường/viện. Nếu tiến hành một cách minh bạch và chính đáng, chọn được người tài thì tôi rất tin các cơ quan chủ quản có thế mạnh như hai ĐHQG, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam… sẽ ủng hộ và chấp thuận cùng đầu tư. Như vậy, đây sẽ là sự hợp tác ba bên cùng có lợi: Quỹ sử dụng đồng tiền đúng mục đích, hiệu quả; cơ quan chủ quản khẳng định được vị thế của mình so với những tổ chức khác thông qua việc thu hút và nuôi dưỡng cá nhân xuất sắc; nhà khoa học có điều kiện nghiên cứu và có những đóng góp quan trọng đối với cộng đồng khoa học quốc tế, đóng góp vào sự phát triển của xã hội.
Hệ quả
Rõ ràng ai cũng nhìn thấy hệ quả tốt đẹp của một nền khoa học khi đầu tư thành công vào những cá nhân và nhóm nghiên cứu xuất sắc. Ở đây tôi muốn nhắc đến một vài khía cạnh khác, góp phần làm lành mạnh nền khoa học.
Theo Tiasang. |
![]() ![]() ![]() |
[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
|