Các thị trường chính cung cấp TĂCN & NL cho Việt Nam trong tháng 4/2019 vẫn là Argentina, Mỹ, Ấn Độ và Trung Quốc... Trong đó, Argentina trở thành thị trường cung cấp lớn nhất cho Việt Nam với 91 triệu USD, giảm 26,38% so với tháng trước đó và giảm 43,56% so với cùng tháng năm ngoái, nâng kim ngạch nhập khẩu TĂCN & NL trong 4 tháng đầu năm 2019 lên hơn 417 triệu USD, chiếm 33,1% thị phần.
Theo số liệu thống kê từ TCHQ, tháng 3/2019 nhập khẩu bông của Việt Nam tăng mạnh cả về lượng và trị giá, tăng lần lượt 67,1% và 69,6% - đây là tháng tăng mạnh nhất kể từ đầu năm – đạt tương ứng 150,2 nghìn tấn, trị giá 282,29 triệu USD. Nâng lượng bông nhập khẩu quý 1/2019 lên 379,8 nghìn tấn, trị giá 710,6 triệu USD, giảm 8,6% về lượng và giàm 6,3% trị giá so với cùng kỳ năm 2018.
Từ đầu năm đến nay, giá xuất khẩu (XK) gạo sang thị trường lớn nhất của Việt Nam là Philippines ghi nhận sụt giảm đáng kể 13% so với cùng kỳ năm trước. Theo Trung tâm Tin học và Thống kê (Bộ NN&PTNT): Khối lượng XK gạo 4 tháng đầu năm ước đạt 2,02 triệu tấn và 865 triệu USD, giảm 8% về khối lượng và giảm 23,9% về giá trị so với cùng kỳ năm 2018. Giá gạo XK bình quân 3 tháng đầu năm đạt 434 USD/tấn, giảm 13,4% so với cùng kỳ năm 2018.
Trong khi đó, diện tích đậu nành ước tính ở mức 84,6 triệu mẫu, giảm 5% so với cùng kì năm ngoái. Mặc dù những ước tính này có thể sớm thay đổi khi vụ mùa bắt đầu nhưng nó quan trọng để đánh giá tương quan của các loại ngũ cốc này so với chi phí thức ăn chăn nuôi, và hơn hết là để tìm ra triển vọng về chi phí thức ăn chăn nuôi trong phần còn lại của năm nay.
Tại thị trường thế giới, mặt hàng Urea vẫn có xu hướng tăng giá do ảnh hưởng của các giao dịch tại khu vực Nam Á. Giá các mặt hàng phân bón tại thị trường trong nước giữ mức ổn định, tuy nhiên dưới tác động của giá mặt hàng Urea tăng nhanh trên thị trường thế giới, lượng hàng tồn kho tại khu vực đang ở mức thấp dự đoán giá phân Urea trong nước sẽ có nhiều thay đổi trong thời gian tới.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông lâm thuỷ sản tháng 4/2019 ước đạt 3,5 tỷ USD. Lũy kế 4 tháng, tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành ước đạt 12,4 tỷ USD, tương đương cùng kỳ năm ngoái; thặng dư thương mại ước đạt 2,7 tỷ USD, giảm 8,7% so với cùng kỳ năm trước.
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, xuất khẩu hạt tiêu sau khi sụt giảm cả về lượng và kim ngạch trong tháng 2/2019, thì tháng 3/2019 tăng mạnh 110,5% về khối lượng và tăng 102,3% về kim ngạch so với tháng 2/2019, đạt 35.269 tấn, tương đương 89,45 triệu USD; so với tháng 3/2018 thì tăng 17,3% về lượng nhưng giảm 15,8% về kim ngạch.
Giá cà phê nhân xô các tỉnh Tây Nguyên trong tuần 18 có 3 phiên đầu tuần nghỉ lễ, sau đó sụt giảm liên tục trong 3 phiên cuối tuần, mất 1.000 đồng/kg chốt ở 30.000 – 30.900 đồng/kg. Giá thu mua cà phê giảm nhưng chi phí đầu vào như nhân công, xăng dầu, phân bón, thuốc trừ sâu… tăng khiến giá bán cà phê nhân xô hiện nay thấp hơn cả giá thành sản xuất.
Quý 1/2019 xuất khẩu nhóm hàng rau quả của cả nước đạt 948,87 triệu USD, giảm nhẹ 2,2% so với cùng kỳ năm 2018. Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, hàng rau quả của Việt Nam xuất khẩu ra nước ngoài trong tháng 3/2019 đạt 364,6 triệu USD, tăng 57,4% so với tháng 2/2019 và tăng 13,4% so với cùng tháng năm 2018.
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, xuất khẩu cà phê trong tháng 3/2019 tăng mạnh trở lại gần 40% cả về lượng và kim ngạch sau khi giảm 38% cả về lượng và kim ngạch trong tháng trước đó. Cụ thể, tháng 3 xuất khẩu 171.080 tấn cà phê, thu về 298,53 triệu USD, nâng tổng lượng cà phê xuất khẩu cả quý 1/2019 lên 488.648 tấn cà phê, tương đương 850,09 triệu USD, giảm 7,7% về lượng và giảm 17,3% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2018.